TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 230/2022/HS-PT NGÀY 22/04/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 22 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 112/2022/TLPT - HS ngày 17 tháng 02 năm 2022 đối với bị cáo Mai Bảo K do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HSST ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Mai Bảo K; giới tính: Nam; sinh năm 1985; tại: Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký thường trú: số 64/20 tổ 1, đường B, Phường 5, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: số 39/5J tổ 23 (tổ 7 cũ), ấp Mỹ Hòa 1, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; trình độ học vấn: 08/12; nghề nghiệp: Không; con ông Mai Đức Phúc, sinh năm 1951 và bà Vũ Thị Tuyết Oanh, sinh năm 1957; vợ: Lương Thị Hồng Nga, sinh năm 1990; con: có 02 người con (lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2020); tiền sự: Không;
- Tiền án: Ngày 22/4/2004, bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử tuyên phạt 18 tháng tù, về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án hình sự số 621/2004/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/01/2005. Ngày 14/9/2005, bị Tòa án nhân dân quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản” tại bản án hình sự sơ thẩm số 150/2009/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 09/02/2009. Ngày 13/11/2013, bị Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 07 năm tù, về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án hình sự số 241/2013/HSST; chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/9/2018.
- Bị bắt, tạm giam từ ngày 22/8/2020 (Có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Đỗ Xuân Tr - là luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh - Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 21/8/2020, tại trước nhà số 1060 Quốc lộ 1A, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an quận B bắt quả tang Lê Quốc S về hành vi cất giấu ma túy để bán. Thu giữ ở móc xe máy biển số 50X1-116.39 mà S điều khiển một túi vải có hình bông đựng một hộp giấy có ghi chữ “Dưỡng Tuyết Sâm”, bên trong có 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 80,6825 gam, loại Ketamine); 01 điện thoại di động. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Quốc S tại phòng 411 nhà số 66B N, Phường 15, quận T không thu giữ gì liên quan đến vụ án.
Qua đấu tranh, Lê Quốc S khai nhận số ma túy bị thu giữ do S mua của Mai Bảo K. Vào lúc 22h45’ ngày 21/8/2020, Cơ quan điều tra Công an quận B khám xét khẩn cấp chỗ ở của Mai Bảo K tại nhà số 39/5J tổ 23 (tổ 7 cũ), ấp M, xã T, huyện H, Thành phố Hồ Chí Minh thu giữ ngay cạnh giường trong phòng ngủ của K tại lầu 1, một túi xách màu xanh đựng: 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 16,3606 gam, loại Ketamine) và 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (kết quả giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 472,6 gam, loại Methamphetamine); 02 điện thoại di động và số tiền 990.000.000 đồng.
Toàn bộ số ma túy thu giữ trong vụ án đã được giám định, kết quả thể hiện tại bản Kết luận giám định số 1465/KLGĐ-H ngày 28/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Bút lục số 83).
Kết quả điều tra xác định:
Lê Quốc S khai nhận có sử dụng ma túy, khoảng tháng 7/2020, S quen biết người bạn tên Q (không rõ lai lịch) và Mai Bảo K. Q biết S có sử dụng ma túy nên cho S 30 gam ma túy khay (Ketamine), S nhận ma túy mang về cất giấu tại chỗ ở, khi nào có người mua sẽ bán kiếm lời. Đồng thời, S có hỏi Mai Bảo K nguồn ma túy và được K cho số điện thoại để S liên lạc mua ma túy khi cần. Ngày 20/8/2020, một người bạn tên H (không rõ lai lịch) gọi điện cho S hỏi mua 50g ma túy khay (Ketamine) nên ngày 21/8/2020, S gọi điện cho Mai Bảo K đặt mua 50g Ketamine với giá 28.000.000 đồng, giao nhận ma túy tại trước quán cà phê Thảo Nguyên, huyện Hóc Môn. Mua ma túy xong, S mang về chỗ ở trộn với số ma túy của Q cho nêu trên với dự định nếu H mua hết sẽ bán với giá 35.000.000 đồng hoặc bán với giá 30.000.000 đồng đối với 50 gam ma túy khay (Ketamine). S cất giấu toàn bộ số ma túy trong một hộp giấy có ghi chữ “Dưỡng Tuyết Sâm” đựng trong một túi vải có hình bông treo trên móc xe, rồi điều khiển xe máy biển số 50X1-116.39 đi bán ma túy cho H tại điểm hẹn ở khu vực huyện Bình Chánh; khi S đang trên đường đi thì bị Công an phát hiện bắt quả tang và thu giữ số ma túy như đã nêu trên. Ngoài ra, S khai trước đây có lần Q còn cho S khoảng 02 - 03 viên thuốc lắc và S đã bán cho một người bạn tên T (không rõ lai lịch) với giá 300.000 đồng nhưng sau đó do không liên lạc được với T nên Sang chưa nhận được tiền.
Mai Bảo K khai nhận phù hợp với Lê Quốc S. Nguồn ma túy, K mua của một người phụ nữ tên T (không rõ lai lịch) vào ngày 20/8/2020, K đã hỏi mua của T nửa ký ma túy đá (Methamphetamine) và nửa lạng ma túy khay (Ketamine), T báo giá lần lượt là 95.000.000 đồng và 25.000.0000 đồng, hẹn giao dịch tại khu vực cầu Ông Lãnh, Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại điểm hẹn, K nhận từ T một túi xách màu xanh đựng 01 gói ma túy đá và 02 gói ma túy khay (một lớn, một nhỏ). T nói gói ma túy khay lớn có khối lượng 50g và 450g ma túy đá và 01 gói ma túy khay nhỏ để vừa đủ tổng số tiền 120.000.000 đồng. Sau khi nhận ma túy, K giao cho T 80.000.000 đồng và hẹn khi nào bán hết ma túy sẽ trả số tiền còn lại. K không cân lại mà đem toàn bộ số ma túy trên về cất giấu tại chỗ ở tại nhà số 39/5J tổ 23, ấp Mỹ Hòa 1, xã T, huyện Hóc Môn dự định để bán kiếm lời. Ngày 21/8/2020, K đã bán cho Lê Quốc S 50 gam ma túy khay với giá 28.000.000 đồng. Sau đó, K về lại chỗ ở thì bị Công an khám xét khẩn cấp và thu giữ số ma túy còn lại chưa kịp bán như đã nêu trên.
Đối với các đối tượng tên T, Q, H và T do K, S khai không rõ lai lịch nên Cơ quan điều tra không có căn cứ xác minh truy tìm.
Vật chứng vụ án: Đã được liệt kê tại Phiếu nhập kho vật chứng số 578/PNK/2020 ngày 27/11/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh (Bút lục số 79). Bao gồm:
- Thu giữ của Mai Bảo K: 01 (một) gói niêm phong số 1465/20 (Gói 2) bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Xuân Sang và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường bên trong là ma túy còn lại sau giám định (gói bị chảy nước); 01 (một) túi xách màu xanh; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia; 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo (model R831K,…83632); số tiền Việt Nam 990.000.000 đồng đã nộp vào kho bạc Nhà nước.
- Thu giữ của Lê Quốc S: 01 (một) gói niêm phong số 1465/20 (Gói 1) bên ngoài có chữ ký giám định viên Nguyễn Xuân Sang và cán bộ điều tra Trần Bảo Cường bên trong là ma túy còn lại sau giám định (gói bị chảy nước); 01 (một) hộp giấy có chữ Dưỡng Tuyết Sâm, 01 (một) túi vải có hình bông; 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone (bung màn, không ốc); 01 (một) xe hai bánh gắn máy; nhãn hiệu Honda; số loại:Vario, dung tích xilanh 124,88; BS: 50X1 – 116.39; SK: MH1JM5113KK468741; SM: JM51E1468252 (không gương, xe cũ rỉ sét, máy móc bên trong không kiểm tra)
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 10 tháng 01 năm 2022, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
Căn cứ điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Mai Bảo K tù Chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2020.
Phạt bổ sung bị cáo Mai Bảo K số tiền 50.000.000 (Năm mươi triệu) đồng nộp sung quỹ Nhà nước.
Ngoài ra, bản án còn tuyên hình phạt đối với bị cáo Lê Quốc S, án phí và quyền kháng cáo cho các bị cáo.
Ngày 14/01/2022 bị cáo Mai Bảo K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay, bị cáo Mai Bảo K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nhận định và tuyên xử của bản án sơ thẩm, bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng mức án sơ thẩm tuyên là nặng và xin giảm mức phạt tiền do hoàn cảnh khó khăn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến như sau:
Bị cáo Mai Bảo K có hành vi mua bán trái phép các chất ma tuý ở thể rắn đối với khối lượng ma tuý tổng cộng 472,6 gam Methamphetamine và 66,3606 gam Ketamine (bao gồm 50 gam Ketamine đã bán cho Lê Quốc Nam bị thu giữ khi bắt quả tang Sang); 16,3606 gam Ketamine và 472,6 gam Methamphetamine (bị thu giữ khi khám xét chỗ ở của Khánh) nên đủ kết tội bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Mức hình phạt tù Chung thân mà Toà sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Đối với kháng cáo xin giảm mức tiền phạt xét thấy khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng – 500.000.000 đỏng. Tòa án sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải nộp 50.000.000 đồng tiền phạt bổ sung là phù hợp. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo kháng cáo nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ gì mới phát sinh. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Luật sư bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất với tội danh mà cấp sơ thẩm đã nhận định và tuyên xử. Tuy nhiên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có nhân thân tốt phạm tội lần đầu, chưa có tiền án tiền sự; gia đình có hoàn cảnh khó khăn, có thân nhân có thành tích trong lao động chiến đấu, bị cáo nhận thức pháp luật còn hạn chế. Đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt và không tuyên phạt hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tính hợp lệ của đơn kháng cáo của bị cáo Mai Bảo K: Đơn kháng cáo của bị cáo Mai Bảo K được làm trong thời hạn luật định. Do đó, đủ điều kiện để thụ lý và xét xử theo trình tự phúc thẩm.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Mai Bảo K thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, đã có đủ cơ sở xác định:
Bị cáo Mai Bảo K đã có hành vi mua bán trái phép các chất ma tuý ở thể rắn đối với khối lượng ma tuý tổng cộng 472,6 gam Methamphetamine và 66,3606 gam Ketamine (bao gồm 50 gam Ketamine đã bán cho Lê Quốc Nam bị thu giữ khi bắt quả tang Sang); 16,3606 gam Ketamine và 472,6 gam Methamphetamine (bị thu giữ khi khám xét chỗ ở của Khánh) nên đủ kết tội bị cáo về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 như cấp sơ thẩm đã truy tố xét xử là có căn cứ.
[3.] Về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội:
Hành vi của bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là nguyên nhân làm gia tăng các loại tội phạm về ma tuý và các tệ nạn xã hội khác. Cần áp dụng hình phạt nghiêm, tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục cải tạo bị cáo thành người biết tuân theo pháp luật nhằm giáo dục riêng và phòng chống tội phạm chung.
Xét kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử xét thấy: Khi quyết định hình phạt Toà án án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét về nhân thân, bị cáo Mai Bảo K có 03 tiền án chưa được xoá án tích, nay lại phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nên thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo mua bán các chất ma tuý ở thể rắn với khối lượng lớn; thể hiện thái độ bất chấp; xem thường pháp luật xét không còn khả năng cải tạo, nên án sơ thẩm tuyên tù chung thân - cách ly bị cáo vĩnh viễn ra khỏi xã hội mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa tội phạm chung hiện nay là có căn cứ. Tại phiên toà phúc thẩm hôm nay bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Do vậy không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo.
Đối với kháng cáo về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo có hành vi mua bán số lượng ma túy lớn, tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật hình sự quy định bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng – 500.000.000 đỏng. Tòa án sơ thẩm tuyên buộc bị cáo phải nộp 50.000.000 đồng tiền phạt bổ sung là phù hợp.
Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[4] Về án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Mai Bảo K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Bảo K. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2022/HS-ST ngày 10 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Áp dụng vào điểm h khoản 4 và khoản 5 Điều 251; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);
Xử phạt: Bị cáo Mai Bảo K tù Chung thân, về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/8/2020.
Phạt bổ sung bị cáo Mai Bảo K số tiền 50.000.000 đồng nộp sung quỹ nhà nước.
2. Tiếp tục tạm giam bị cáo Mai Bảo K để đảm bảo Thi hành án.
3. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Mai Bảo K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày thời hạn hết kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 230/2022/HS-PT
Số hiệu: | 230/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về