TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CƯ KUIN, TỈNH ĐẮK LẮK
BẢN ÁN 22/2024/HS-ST NGÀY 27/08/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 27 tháng 8 năm 2024, tại hội trường xét xử A, Tòa án nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 21/2024/HSST ngày 29 tháng 7 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2024/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Nguyễn Duy H; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 12/10/1994 tại tỉnh Đắk Lắk; Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ học vấn: 8/12; Họ và tên cha: Nguyễn X; Họ và tên mẹ: Phan Thị G; Bị cáo có vợ là Hoàng Thị Kim N, sinh năm 1998; Bị cáo có 02 người con, con lớn sinh năm 2019, con nhỏ sinh năm 2020; Tiền án; Tiền sự: không;
Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện C từ ngày 12/4/2024 cho đến nay, có mặt.
2. Bị hại: Bà Trần Thị T, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk (Vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)
3. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
- Ông Lê Văn P, sinh năm 1997; Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (vắng mặt)
- Ông Lê Văn P1, sinh năm 1980; Nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (vắng mặt)
- Ông Nguyễn Duy P2, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Thôn A, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (có mặt)
- Ông Nguyễn Mạnh H1, sinh năm 1993; Nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (Vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)
- Ông Nguyễn Duy L, sinh năm 1989; Nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (có mặt).
- Ông Lê Văn C, sinh năm 1984; Nơi cư trú: Buôn K, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (vắng mặt)
- Ông Đoàn Phước T1, sinh năm 1954; Nơi cư trú: Phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; (vắng mặt)
- Ông Trần Nguyễn Q, sinh năm 1992; Nơi cư trú: Thôn A, xã E, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; (Vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt)
4. Người làm chứng: Cháu Nguyễn Hoàng Phi L1, sinh năm 2012; (vắng mặt)
Người đại diện theo pháp luật: Bà Trần Thị T, sinh năm 1981; Nơi cư trú: Thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk; (Vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 12/4/2024, Nguyễn Duy H điều khiển xe mô tô biển kiểm soát số 47T1-X lưu thông trên đường Q hướng từ thành phố B về huyện C. Khi đi đến khu vực chợ T3 thuộc thôn B, xã E, huyện C, tỉnh Đắk Lắk thì H phát hiện cháu Nguyễn Hoàng Phi L1 đang điều khiển xe đạp điện phía sau chờ mẹ là chị Trần Thị T đi cùng chiều phía trước. Khi cách chị T khoảng 2 mét thì H nhìn thấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám của chị T đang để trong túi quần phía sau bên trái. Lúc này, H nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản (chiếc điện thoại di động) để bán lấy tiền tiêu xài cá nhân nên H điều khiển xe mô tô áp sát người chị T rồi dùng tay phải của mình giật lấy chiếc điện thoại, rồi tăng ga xe mô tô bỏ chạy về hướng trung tâm huyện C. Thấy vậy, chị T dùng xe đạp đuổi theo và truy hô “Cướp, cướp điện thoại” nhưng không đuổi kịp nên dừng lại. Khi bỏ chạy được một đoạn đường, H bỏ chiếc điện thoại di động vừa chiếm đoạt được vào túi quần rồi điều khiển xe mô tô tiếp tục bỏ chạy. Khi đi đến khu vực ngã ba cây gòn thuộc xã E, huyện C, H điều khiển xe chạy vào đường tắt đi qua lô, rẫy thuộc xã E để đi về nhà anh Lê Văn P trả xe cho anh P, rồi H đi bộ về nhà. Khi về nhà H tiếp tục điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 47K5-X đi đến cửa hàng Đ số A đường P, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk của anh Trần Nguyễn Q và thỏa thuận bán chiếc điện thoại trên cho anh Q với giá 9.000.000 đồng, anh Q đồng ý và chuyển vào tài khoản Ngân hàng TMCP S ( S1) số 0602.669.07802 của Nguyễn Duy H số tiền 9.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền, H đã chuyển khoản cho Nguyễn Mạnh H1 nhờ rút 5.000.000 đồng tiền mặt, còn lại trong tài khoản số tiền 4.000.000 đồng, H tiếp tục chuyển vào tài khoản của Nguyễn Duy L để trả nợ trước đó. Sau đó, H đi mua 01 chiếc điện thoại Oppo với giá 1.700.000 đồng, còn lại số tiền 3.300.000 đồng H bỏ trong túi quần.
Sau khi đuổi không kịp, bà T đã đến Cơ quan chức năng trình báo nội dung vụ việc. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày (12/4/2024) Cơ quan điều tra Công an huyện C phát hiện và triệu tập H đến Công an huyện C để làm việc. Thu giữ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, không gắn thẻ sim, có nhiều vết rạn nứt trên màn hình, không mở được màn hình để kiểm tra số IMEL, đã qua sử dụng; 01 điện thoại nhãn hiệu OPPO, số loại OPPO F11, màu xanh, số Seri: KBZ9ROINHYEU05; IMEL 1: 866084040623255; IMEL 2: 866084040623248, gắn 02 sim có số Sêri: 8984048000381249617, 8401200250008108, đã qua sử dụng; 01 xe mô tô biển kiểm soát 47K5 - X, số tiền 3.300.000 đồng do Nguyễn Duy H giao nộp.
Từ nội dung trên hãy soạn đề cương xét hỏi của Hội đồng xét xử cụ thể câu hỏi và câu trả lời? * Tại Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 15/4/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện C kết luận: “Điện thoại di động, nhãn hiệu Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám (Titan), tại thời điểm định giá ngày 12/4/2024, có giá trị tài sản là 24.500.000 đồng”. (BL 31).
Ngày 11/6/2024, anh Nguyễn Duy L đã tự nguyện giao nộp số tiền 1.000.000 đồng mà bị cáo Nguyễn Duy H chuyển vào tài khoản của anh L để trả nợ do H mượn anh L trước đó.
Ngày 03/7/2024, anh Lê Văn C đã tự nguyện giao nộp số tiền 1.700.000 đồng mà anh C đã bán chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO, số loại OPPO F11, màu xanh cho bị cáo H.
Tại Bản cáo trạng số: 21/CT-VKS-HS ngày 26/7/2024 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin, tỉnh Đắk Lắk truy tố bị cáo Nguyễn Duy H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Kết quả xét hỏi tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra.
Quá trình tranh luận, đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội do bị cáo gây ra và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm b, h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:
- Chấp nhận việc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C trả lại các tài sản cho các chủ sở hữu sau:
+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, không gắn thẻ sim, có nhiều vết rạn nứt trên màn hình, đã qua sử dụng và 02 sim có số Sêri: 8984048000381249617, 8401200250008108 trả lại cho bị cáo Nguyễn Duy H;
+ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47T1-X trả lại cho anh Lê Văn P;
+ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47K5-X trả lại cho anh Nguyễn Duy P2;
+ 01 chiếc điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám (Titan) trả lại cho chị Trần Thị T;
+ 01 chiếc điện thoại Oppo, loại Oppo F11, màu xanh trả lại cho anh Lê Văn C.
- Đối với 01 đĩa DVD lưu giữ 01 File video ghi lại hình ảnh bị cáo Nguyễn Duy H thực hiện hành vi cướp giật tài sản vào ngày 12/4/2024, do ông Bùi Anh T2 giao nộp là chứng cứ của vụ án nên lưu giữ vào hồ sơ vụ án.
- Đối với số tiền 9.000.000 đồng đã nộp vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐVKS-HS ngày 26/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Cư Kuin, (trong đó gồm: Bị cáo H giao nộp số tiền 3.300.000 đồng, số tiền 3.000.000 đồng bị cáo H nhờ anh Nguyễn Duy L rút từ tài khoản của H để giao nộp, số tiền 1.700.000 đồng do anh Lê Văn C giao nộp, số tiền 1.000.000 đồng do anh Nguyễn Duy L giao nộp), quá trình điều tra xác minh được đây là số tiền mà anh Trần Nguyễn Q bỏ ra để mua chiếc điện thoại 01 điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám của bị cáo Nguyễn Duy H. Do đó, cần trả lại số tiền trên cho anh Trần Nguyễn Q.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Trần Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn C, anh Trần Nguyễn Q không yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.
Bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Bản cáo trạng đã truy tố và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.
Tại lời nói sau cùng bị cáo nhận thấy hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị HDXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, truy tố, Điều tra viên và Kiểm sát viên đã thực hiện đúng thẩm quyền về trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Xét sự vắng mặt của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng tại phiên tòa không gây trở ngại cho việc xét xử vụ án, căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[3] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với các tình tiết phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở pháp lý để kết luận: Vào khoảng 07 giờ 00 phút, ngày 12/4/2024, Nguyễn Duy H đã điều khiển xe mô tô để áp sát người chị T rồi dùng tay phải của mình giật lấy 01 điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám của chị Trần Thị T để ở túi quần phía sau khi đang ngồi sau xe đạp điện, rồi bỏ chạy. Giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 24.500.000 đồng. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết định khung hình phạt “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự như nội dung cáo trạng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng pháp luật.
Điều 171 Bộ Luật hình sự quy định:
1. Người nào cướp giật tài sản của người khác thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
...
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm”
[4] Xét thấy, hành vi tội phạm do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn của địa phương và quyền sở hữu của người bị hại được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự nên nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, là phạm tội nhưng vì bản chất lười lao động lại mong muốn nhanh chóng có tiền tiêu xài, thỏa mãn nhu cầu cá nhân và xem thường pháp luật nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi cướp giật tài sản của người khác. Do đó đối với hành vi phạm tội của bị cáo cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân tốt, có ích cho xã hội.
[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhân thân tốt; Bị cáo đã tự nguyện giao nộp lại số tiền 3.300.000 đồng để bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả; tài sản đã được thu hồi trả lại cho bị hại xem như chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn, được bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo, nhằm thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật Nhà nước.
[6] Về các biện pháp tư pháp:
* Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
Chấp nhận việc Cơ quan CSĐT Công an huyện C ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản sau cho các chủ sở hữu gồm:
+ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47T1-X trả lại cho anh Lê Văn P;
+ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47K5-X trả lại cho anh Nguyễn Duy P2;
+ 01 chiếc điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám (Titan) trả lại cho chị Trần Thị T;
+ 01 chiếc điện thoại Oppo, loại Oppo F11, màu xanh trả lại cho anh Lê Văn C.
- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, không gắn thẻ sim, có nhiều vết rạn nứt trên màn hình, không mở được màn hình để kiểm tra số IMEL, đã qua sử dụng và 02 sim có số Sêri: 8984048000381249617, 8401200250008108 của bị cáo Nguyễn Duy H, tại phiên tòa bị cáo không có yêu cầu được nhận lại các tài sản này do bị hư hỏng, không còn giá trị nên cần tịch thu, tiêu hủy.
- Đối với 01 đĩa DVD lưu giữ 01 File video ghi lại hình ảnh bị cáo Nguyễn Duy H thực hiện hành vi cướp giật tài sản vào ngày 12/4/2024, do ông Bùi Anh T2 giao nộp là chứng cứ của vụ án nên lưu giữ vào hồ sơ vụ án.
- Đối với số tiền 9.000.000 đồng đã nộp vào tài khoản của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐVKS-HS ngày 26/7/2024 (trong đó gồm: Bị cáo H giao nộp số tiền 3.300.000 đồng, số tiền 3.000.000 đồng bị cáo H nhờ anh Nguyễn Duy L rút từ tài khoản của H để giao nộp, số tiền 1.700.000 đồng do anh Lê Văn C giao nộp, số tiền 1.000.000 đồng do anh Nguyễn Duy L giao nộp), quá trình điều tra xác minh được đây là số tiền mà anh Trần Nguyễn Q bỏ ra để mua chiếc điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám của bị cáo Nguyễn Duy H nên trả lại cho anh Trần Nguyễn Q là đúng quy định.
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Trần Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn C, anh Trần Nguyễn Q không yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.
[7] Các tình tiết khác:
- Đối với anh Lê Văn P và anh Nguyễn Duy P2 đã cho bị cáo Nguyễn Duy H mượn xe mô tô để đi, quá trình điều tra đã xác định được cả hai người này không biết việc bị cáo H sử dụng xe mô tô để đi cướp giật tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện C không đề cập xử lý đối với P và P2 là có căn cứ.
- Đối với anh Trần Nguyễn Q đã mua chiếc điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám của bị cáo Nguyễn Duy H. Tuy nhiên, khi bán thì bị cáo H không nói cho anh Q biết là điện thoại do H cướp giật được và anh Q cũng không biết do H phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không đề cập xử lý đối với anh Q là có căn cứ.
- Đối với anh Lê Văn C đã bán 01 điện thoại OPPO, loại OPPO F11, màu xanh cho bị cáo Nguyễn Duy H với số tiền 1.700.000 đồng. Tuy nhiên khi mua điện thoại thì bị cáo H không nói cho anh C biết số tiền trên là do bị cáo H phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không đề cập xử lý đối với anh C là có căn cứ.
- Đối với anh Nguyễn Mạnh H1 đã nhận 5.000.000 đồng từ tài khoản của bị cáo Nguyễn Duy H để đưa cho bị cáo H số tiền mặt là 5.000.000 đồng. Tuy nhiên, khi nhận chuyển khoản anh H1 không biết số tiền mình nhận chuyển khoản từ bị cáo Nguyễn Duy H là do H phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không đề cập xử lý đối với anh H1 là có căn cứ.
- Đối với anh Nguyễn Duy L đã nhận 1.000.000 đồng từ tài khoản của bị cáo Nguyễn Duy H là do H chuyển để trả nợ trước đó. Tuy nhiên, anh L không biết số tiền mình nhận chuyển khoản từ bị cáo H là do H phạm tội mà có. Do đó, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C không đề cập xử lý đối với anh L là có căn cứ.
[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy H phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy H phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; Điều 38; điểm b, h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy H 03 (Ba) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 12/4/2024.
2. Về các biện pháp tư pháp:
* Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:
- Chấp nhận việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện C ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại các tài sản sau cho các chủ sở hữu gồm:
+ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47T1-X trả lại cho anh Lê Văn P;
+ 01 chiếc xe mô tô biển kiểm soát 47K5-X trả lại cho anh Nguyễn Duy P2;
+ 01 chiếc điện thoại Apple, loại Iphone 15 Pro Max, màu xám (Titan) trả lại cho chị Trần Thị T;
+ 01 chiếc điện thoại OPPO, loại OPPO F11, màu xanh trả lại cho anh Lê Văn C.
- Lưu giữ vào hồ sơ vụ án đối với 01 đĩa DVD lưu giữ 01 File video ghi lại hình ảnh bị cáo Nguyễn Duy H thực hiện hành vi cướp giật tài sản vào ngày 12/4/2024, do ông Bùi Anh T2 giao nộp.
- Trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là anh Trần Nguyễn Q đối với số tiền 9.000.000 đồng theo Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐ-VKS-HS ngày 26/7/2024.
- Tịch thu tiêu hủy 01 điện thoại di động nhãn hiệu Vivo, không gắn thẻ sim, có nhiều vết rạn nứt trên màn hình, không mở được màn hình để kiểm tra số IMEL, đã qua sử dụng và 02 sim có số Sêri: 8984048000381249617, 8401200250008108 của bị cáo Nguyễn Duy H.
(Vật chứng có đặc điểm và số lượng như Quyết định chuyển vật chứng số 17/QĐ-VKS-HS ngày 26/7/2024; Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện C và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Cư Kuin ngày 06/8/2024 và Giấy nộp tiền của Ngân hàng N1 ngày 06/8/2024).
* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Trần Thị T, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Lê Văn C, anh Trần Nguyễn Q không yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết.
3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Duy H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 22/2024/HS-ST
Số hiệu: | 22/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Cư Kuin - Đăk Lăk |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/08/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về