Bản án về tội cướp giật tài sản số 22/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 22/2023/HS-ST NGÀY 08/03/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 08/3/2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 06/2023/TLST- HS ngày 13/01/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2023/QĐXXST-HS ngày 27/01/2023 đối với bị cáo :

Lê Hồng C, Sinh năm 1983 tại phường M, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa. Nơi cư trú: TDP H, phường M, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn 5/12; giới tính: nam; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; con ông: Lê Hồng L và bà Trần Thị L; vợ Nguyễn Thị T (đã ly hôn), có 01 con sinh năm 2004.

Tiền án: 02 tiền án.

- Bản án số 204/2016/HSST ngày 13/12/2016, cuả Tòa án nhân dân huyện Tĩnh Gia (nay là TAND thị xã Nghi S) xử phạt 36 tháng tù về tội giao cấu với trẻ em.

- Bản án số 121/2017/HSST ngày 27/9/2017 của TAND huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi S) xử phạt 05 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý (hành vi phạm tội ngày 17/7/2017), tổng hợp hình phạt với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án số 204/2016/HSST, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là 07 năm 08 tháng 11 ngày tù. Tại Bản án HSPT số 244/2017/HSPT ngày 26/12/2017 TAND tỉnh Thanh Hóa tuyên y án sơ thẩm.

Bị cáo được tạm đình chỉ chấp hành án phạt tù ngày 05/9/2018. Thời hạn tù còn lại chưa chấp hành 07 năm 01 tháng 16 ngày.

Tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2008 bị chủ tịch UBND huyện Tĩnh Gia (nay là thị xã Nghi S), tỉnh Thanh Hóa, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữa bệnh.

- Năm 2009 bị chủ tịch UBND quận Hai Bà Trưng, thành phố Hà Nội quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở chữ bệnh.

Bị cáo đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Thanh Phong - Bộ Công An từ ngày 19/5/2022 cho đến nay.

*Người bào chữa cho bị cáo C:

Ông Lê Khắc Hải là Trợ giúp viên pháp lý của chi nhánh trợ giúp pháp lý số 3, thuộc trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt)

* Bị hại: Chị Lương Thị L - Sinh năm: 1988 (vắng mặt)

Trú tại: TDP T, phường T, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa.

* Người làm chứng:

- Anh Ngô Văn S - Sinh năm 1984 (vắng mặt)

Trú tại: TDP Y, phường Q, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Lê Hồng P – Sinh năm: 1986 (vắng mặt)

Trú tại: TDP H, phường M, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa.

- Chị Lê Thị H – Sinh năm 1981 (có mặt)

Trú tại: TDP H, phường M, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Mai Văn L - Sinh năm 1984 (vắng mặt)

Trú tại: TDP H, phường M, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa.

- Anh Nguyễn Như T - Sinh năm 1982 (vắng mặt)

Trú tại: TDP T, phường T, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Hồng C là đối tượng đang được tạm đình chỉ thi hành án phạt tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và tội giao cấu với trẻ em. Ngày 06/4/2022, C đến nhà Mai Văn L (là em con của cô ruột C) ở cùng tổ dân phố chơi. Tại đây, C thấy có 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, gắn biển kiểm soát 36C1- X đang dựng ở sân, trên ổ khóa xe cắm sẵn chìa khóa nên C nói với người thanh niên tên Tới đang có mặt ở đó là mượn xe đi cắt tóc. Sau đó C điều khiển chiếc xe theo tuyến Quốc lộ 1A đi về hướng phường Hải Hòa, thị xã Nghi S. Đến khoảng 14 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đèn tín hiệu giao thông ở phường Xuân Lâm, thị xã Nghi S, C điều khiển xe rẽ phải vào đường Đông - Tây đi về phía phường Hải Bình, thị xã Nghi S. Cùng thời điểm này có chị Lương Thị L, trú tại tổ dân phố T, phường T, thị xã Nghi S, đang điều khiển xe mô tô đi cùng chiều phía trước. C thấy túi quần sau bên trái của chị L có dắt 01 chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A12, màu xanh, một phần điện thoại nhô ra ngoài. C đi theo phía sau chị L đến đoạn đường vắng thuộc tổ dân phố Liên Vinh, phường T, thị xã Nghi S, C điều khiển xe mô tô đi lên áp sát bên trái xe chị L, dùng tay phải giật chiếc điện thoại ở túi quần sau của chị L, rồi quay xe bỏ chạy theo hướng ngược lại thì bị ngã xe, làm điện thoại rơi xuống đường. Cùng lúc này có anh Ngô Văn S, trú tại phường Q, thành phố Thanh Hóa điều khiển xe mô tô từ phía sau đi đến, nhìn thấy C bị ngã xe, chiếc điện thoại rơi phía trước xe nên đã lên tiếng nhắc C. C không nói gì, nhặt điện thoại rồi điều khiển xe bỏ chạy ngược chiều về phía Quốc lộ 1A. Về phần chị L, sau khi bị C giật điện thoại, theo quán tính xe của chị L chạy khoảng hơn 10m thì dừng lại; chị L dựng xe, chạy quay lại vừa chạy vừa hô “Điện thoại của tôi, điện thoại của tôi” và truy hô “Cướp, cướp”, tuy nhiên lúc này C đã điều khiển xe mô tô bỏ chạy. Sau khi cướp giật được chiếc điện thoại của chị L, C điều khiển xe chạy lòng vòng đến cầu Vằng thuộc xã Tùng Lâm, thị xã Nghi S thì dừng lại, mở ốp điện thoại ra kiểm tra, phát hiện bên trong ốp có 01 thẻ căn cước công dân, 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 thẻ ATM đều mang tên Lương Thị L, C ném thẻ căn cước công dân của chị L xuống cầu Vằng và tháo 02 thẻ sim trong điện thoại ra rồi điều khiển xe đi về nhà.

Quá trình xác minh, đến ngày 07/4/2022, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghi S tiến hành triệu tập lấy lời khai đối với Lê Hồng C, tại Cơ quan điều tra C giao nộp chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A12 cướp giật được của chị L trước đó.

Tại Kết luận định giá tài sản số 74/KLĐGTS, ngày 12/7/2022 và số 145/KLĐGTS, ngày 23/10/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự UBND thị xã Nghi S, kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy A12 của chị Lương Thị L bị chiếm đoạt nêu trên trị giá 1.500.000 đồng; ốp điện thoại có giá trị 30.000 đồng; chi phí làm lại 02 thẻ sim Viettel là 50.000 đồng và chi phí làm lại thẻ căn cước công dân là 35.000 đồng.

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 đoạn Video trích xuất từ Camera an ninh ghi lại hình ảnh Lê Hồng C điều khiển xe mô tô đi theo phía sau chị Lương Thị L và hình ảnh C điều khiển xe chạy ngược chiều ngay về phía Quốc lộ 1A ngay sau đó.

Tại Kết luận giám định số 2101/KL-KTHS, ngày 10/6/2022, Phòng Kỹ thuật Hình Sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận:

“- Không phát hiện dấu hiệu chỉnh sửa, cắt ghép nội dung hình ảnh trong 03 tập Video của 03 USB gửi giám định.

- Mô tả một số hình ảnh trong các tệp Video mẫu M1, M2 gửi giám định – Được thể hiện trong Phụ lục.” Cơ quan điều tra cũng đã tiến hành thực nghiệm điều tra vụ án diễn lại tình huống chị L dắt chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A12 ở túi quần sau bên trái điều khiển xe mô tô đi trên đoạn đường nơi xảy ra vụ án, xác định: Khi dắt điện thoại vào túi quần phía sau bên trái, do chiều dài của điện thoại lớn hơn chiều sâu của túi quần nên một phần điện thoại nhô lên trên miệng túi và khi chị L điều khiển xe mô tô đi trên đoạn đường bằng phẳng nơi xảy ra vụ án, thì không có khả năng rơi điện thoại và có thể thực hiện được hành vi giật chiếc điện thoại ra khỏi túi từ phía sau.

Quá trình điều tra Lê Hồng C không thừa nhận hành vi cướp giật điện thoại của chị Lương Thị L, mà nại rằng do bản thân không chú ý quan sát đã điều khiển xe mô tô đi sát vào xe chị L, rồi giật mình bóp phanh và bị ngã, khi dựng xe và nhặt đồ rơi ra từ cốp xe, thì C đã nhặt được chiếc điện thoại trên. Tuy nhiên, căn cứ vào lời khai của người bị hại và người làm chứng Ngô Văn S phù hợp với diễn biến vụ án, kết quả khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, kết quả thực nghiệm điều tra; phù hợp với hình ảnh Camera ghi lại quá trình C đi xe mô tô theo sau chị L và phóng xe bỏ chạy theo chiều ngược lại ngay sau đó và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Xác minh về nguồn gốc chiếc xe mô tô Honda Wave Alpha, gắn biển kiểm soát 36C1- X mà Lê Hồng C sử dụng làm phương tiện phạm tội, Mai Văn L khai, chiếc xe này L mua từ đầu năm 2021 của một người không quen biết, không rõ tên tuổi, địa chỉ; khi mua xe thì có đăng ký xe nhưng hiện đã bị mất, L không nhớ tên, địa chỉ chủ xe ghi trong đăng ký. Kết quả giám định của Phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá, xác định biển kiểm soát xe mô tô 36C1-X là giả; số khung nguyên thuỷ của xe là RLHJA3925MY007699; số máy của xe đã bị tẩy xoá. Số máy nguyên thuỷ của xe là JA39E-2123088.

Quá trình điều tra xác định, chiếc xe này thuộc sở hữu của anh Hà Ngọc Liễn, trú tại thôn S Trung, xã Mai S, huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái bị mất trộm ngày 20/5/2021 tại thôn Đại S, xã Hoàn S, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Tuy nhiên L khai khi mua chiếc xe này, L không biết đây là xe trộm cắp nên không có căn cứ xử lý đối với L về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Về vật chứng vụ án:

Cơ quan điều tra đã tạm giữ những vật chứng và đồ vật, tài liệu sau:

- 01 điện thoại di động Samsung Galaxy A12, màu xanh có lắp 01 ốp nhựa dẻo màu xanh, đã qua sử dụng do Lê Hồng C giao nộp.

- 01 thẻ bảo hiểm y tế mang tên Lương Thị L, có số DN 4383812015X do Giám đốc BHXH tỉnh Thanh Hoá cấp ngày 18/8/2017 do chị Lương Thị L giao nộp.

- 01 thẻ ngân hàng Sacombank, loại thẻ xanh, đề tên Luong Thi L và số TK 030067338X do chị Lương Thị L giao nộp.

- 01 xe mô tô gắn biển kiểm soát 36C1-X, nhãn hiệu Honda Wave alpha màu trắng, đã qua sử dụng do Lê Hồng P giao nộp.

- Đối với 01 thẻ căn cước công dân mang tên Lương Thị L, C khai ném tại khu vực cầu Vằng thuộc xã Tùng Lâm, thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hoá, Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm nhưng không thu giữ được.

- Đối với 02 thẻ sim điện thoại C khai đã tháo ra khỏi điện thoại, tuy nhiên không nhớ đã để ở đâu nên không thu giữ được

Về xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc xe mô tô có gắn biển kiểm soát 36C1 – X, nhãn hiệu Honda Wave alpha màu trắng, đã qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghi S đã ra Quyết định xử lý vật chứng bàn giao xe mô tô trên cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh để xử lý theo thẩm quyền.

- Đối với chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A12, màu xanh có lắp 01 ốp nhựa màu xanh; 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 thẻ ngân hàng Sacombank, sau khi phục vụ công tác định giá, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý, giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lương Thị L theo quy định.

- Đối với 01 biển kiểm soát giả có số 36C1- X, Cơ quan điều tra đã nhập kho vật chứng chờ xử lý theo quy định.

Về dân sự: Lê Hồng C đã cùng với gia đình đến nhà chị Lương Thị L xin lỗi và trả lại 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ATM và đề nghị chị L rút đơn yêu cầu khởi tố điều tra đối với C.

Bị hại Lương Thị L đã được nhận lại tài sản bị cướp giật, không có yêu cầu gì thêm về dân sự và có đơn xin miễn, giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại bản Cáo trạng số 18/CT-VKSNS ngày 10/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa truy tố bị cáo Lê Hồng C về tội “Cướp giật tài sản" theo quy định tại điểm d,i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo Lê Hồng C nhận tội, bị cáo thừa nhận bị cáo là người giật điện thoại ở túi quần sau của chị Lương Thị L.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm d,i khoản 2 Điều 171; điểm s, b khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 56 Bộ luật hình sự.

Đề nghị xử phạt bị cáo Lê Hồng C từ 04 năm đến 04 năm 6 tháng tù.

Tổng hợp với phần hình phạt của bản án số 244/2017/HSPT ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa mà bị cáo chưa chấp hành là:

06 năm 3 tháng 22 ngày. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án buộc bị cáo phải chấp hành 10 năm 3 tháng 22 ngày tù đến 10 năm 9 tháng 22 ngày tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại đã được nhận lại tài sản bị cướp giật, không có yêu cầu gì thêm về dân sự * Về xử lý vật chứng: Áp dụng điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS, đề nghị tịch thu tiêu hủy 01 biển kiểm soát xe mô tô giả có số 36C1- X.

Người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa, tuy nhiên có gửi bản bào chữa đến Hội đồng xét xử. Trong bản bào chữa, người bào chữa thống nhất với tội danh và điều luật áp dụng của đại diện VKS và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử bị cáo với mức án thấp nhất.

Hội đồng xét xử công bố lời khai của bị hại Lương Thị L, nhân chứng Ngô Văn S (do chị L, anh S vắng mặt tại phiên tòa). Lời khai của chị L khẳng định: Lê Hồng C là người trực tiếp cướp giật chiếc điện thoại của chị L, sau khi bị cướp giật điện thoại chị L có truy hô “Cướp, cướp” và có nhân chứng là anh Ngô Văn S nghe thấy. Lời khai của anh S khẳng định có nhìn thấy Lê Hồng C bị ngã, điện thoại văng ra và thấy chị L có truy hô “Cướp, cướp”.

Bị cáo Lê Hồng C nói lời sau cùng: Trong giai đoạn điều tra, truy tố bị cáo không thừa nhận hành vi cướp giật điện thoại của chị L. Tại phiên tòa bị cáo đã nhận tội, bị cáo nhận thức được hành vi cướp giật điện thoại di động của chị L là sai vi phạm pháp luật. bị cáo Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hôi đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan CSĐT Công an thị xã Nghi S, Điều tra viên Cơ quan CSĐT Công an thị xã Nghi S; Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi S, Kiểm sát viên VKSND thị xã Nghi S. Trong quá trình điều tra, truy tố đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo Lê Hồng C có ý kiến cho rằng việc Cơ quan CSĐT thị xã Nghi S ra Quyết định khởi tố bị can đối với bị cáo về tội: "Cướp giật tài sản" là không đúng. Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi của mình, nhận tội và không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng thực hiện đều hợp pháp.

Tại phiên tòa người bào chữa cho bị cáo vắng mặt, trước đó người bào chữa đã có đơn xin xét xử vắng mặt vì lý do trở ngại khách quan. Bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa. Căn cứ khoản 1 Điều 291 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo:

Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 06/4/2022 tại đường Đông - Tây, đoạn qua tổ dân phố Liên Vinh, phường T, thị xã Nghi S, Lê Hồng C đã có hành vi sử dụng xe mô tô là phương tiện nguy hiểm áp sát xe mô tô của chị Lương Thị L đang điều khiển đi cùng chiều phía trước, bất ngờ giật chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A12, có lắp ốp nhựa dẻo màu xanh, bên trong lắp 02 sim, có tổng trị giá 1.580.000đ của chị L đang dắt ở túi quần sau bên trái, sau đó bỏ chạy.

Quá trình điều tra, truy tố bị cáo Lê Hồng C không nhận tội. Bị cáo khẳng định bị cáo không cướp giật điện thoại của chị L, bị cáo bị oan.

Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo đã nhận tội, thừa nhận là người trực tiếp giật điện thoại trong túi quần chị L. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai bị hại, nhân chứng, kết quả khám nghiệm hiện trường, vật chứng thu giữ, kết quả thực nghiệm điều tra và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Quyết định truy tố và lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát ND Thị xã Nghi S là hoàn toàn có cơ sở. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận, hành vi của Lê Hồng C đã đủ yếu tố cấu thành tội "Cướp giật tài sản”. Khi thực hiện hành vi cướp giật, bị cáo đã sử dụng xe mô tô là phương tiện nguy hiểm và cướp giật tài sản của người cũng đang điều khiển xe mô tô tham gia giao thông nên hành vi của bị cáo được xác định là đã "Dùng thủ đoạn nguy hiểm" để phạm tội; ngoài ra, trước khi thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo đã có 02 tiền án, đã tái phạm, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục thực hiện tội phạm do cố ý, vì vậy bị cáo phạm tội thuộc trường hợp "Tái phạm nguy hiểm" Tội danh và hình phạt áp dụng được quy định tại điểm d,i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[3].Tính chất vụ án:

Bị cáo vì động cơ mục đích tư lợi nên đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản là chiếc điện thoại trị giá 1.580 của chị Lương Thị L. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm thể hiện sự coi thường pháp luật, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác đồng thời gây mất trật tự trị an xã hội. Do đó cần phải xử lý nghiêm tương xứng với tính chất mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo.

[4]. Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự * Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu, đã 02 lần bị xét xử và nhiều lần bị xử lý hành chính về các hành vi vi phạm.

* Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, truy tố bị cáo không thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội. Sau khi phạm tội, bị cáo đã giao nộp lại chiếc điện thoại đã lấy của chị Lương Thị L. Trong giai đoạn điều tra bị cáo đã cùng với gia đình đến nhà chị Lương Thị L xin lỗi và trả lại 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ATM cho chị L, người bị hại có đơn xin miễn, giảm trách nhiệm hình sự cho bị cáo, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, giảm cho bị cáo 1 phần hình phạt thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự, căn cứ vào tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thể giáo dục cải tạo trở thành người có ích cho xã hội. Do hiện tại bị cáo đang chấp hành hình phạt của bản án trước, nên cần áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng:

Quá trình điều tra Cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 điện thoại di động của chị Lương Thị L do Lê Hồng C giao nộp; 01 thẻ bảo hiểm y tế, 01 thẻ ngân hàng Sacombank đều mang tên Lương Thị L; 01 xe mô tô gắn biển kiểm soát 36C1-X, nhãn hiệu Honda Wave alpha màu trắng, Lê Hồng C sử dụng làm phương tiện đi cướp giật tài sản (do Lê Hồng P giao nộp);

01 biển kiểm soát xe mô tô giả có số 36C1- X.

Đối với chiếc xe mô tô có gắn biển kiểm soát 36C1 – X, nhãn hiệu Honda Wave alpha màu trắng, đã qua sử dụng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Nghi S đã ra Quyết định xử lý vật chứng bàn giao xe mô tô trên cho cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh để xử lý theo thẩm quyền. Đối với chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy A12, màu xanh có lắp 01 ốp nhựa màu xanh; 01 thẻ bảo hiểm y tế và 01 thẻ ngân hàng Sacombank, sau khi phục vụ công tác định giá, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý, giao trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là chị Lương Thị L là phù hợp.

Đối với 01 biển kiểm soát xe mô tô có số 36C1- X bị thu giữ. Quá trình điều tra và kết quả thẩm vấn tại phiên tòa xác định đây là biển số xe giả nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6]. Về trách nhiệm dân sự Bị cáo đã cướp giật chiếc điện thoại di động trị giá 1.580 của chị Lương Thị L. Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu hồi chiếc điện thoại trả lại cho người bị hại, bị cáo cũng đã tự nguyện trả lại các giấy tờ tùy thân cho bị hại. Người bị hại đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì khác về phần dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7]. Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo.

[8]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ: Điểm d,i khoản 2 Điều 171; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38, Điều 56 Bộ luật hình sự.

* Tuyên bố: Lê Hồng C phạm tội "Cướp giật tài sản"

* Xử phạt: Lê Hồng C 4 (bốn) năm tù. Tổng hợp với phần hình phạt của bản án số 244/2017/HSPT ngày 26/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa mà bị cáo chưa chấp hành là: 06 năm 3 tháng 22 ngày. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án buộc bị cáo phải chấp hành 10 (mười) năm 3(ba) tháng 22 (hai mươi hai) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 08/03/2023.

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì do Công an tỉnh phát hành được dán kín niêm phong, mặt trước có ghi dòng chữ 2086/KL- KTHS và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, bên trong đựng 01 biển kiểm soát xe mô 36C- X (Biển số giả) Tang vật trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Nghi S, theo biên bản giao nhận vật chứng số 22 ngày 07/02/2023 và phiếu nhập kho số 22/2023, ngày 07/02/2023 giữa Công an Thị xã Nghi S và Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Nghi S, tỉnh Thanh Hóa.

*. Về trách nhiệm dân sự: Công nhận bị hại đã nhận lại tài sản do bị cáo chiếm đoạt.

* Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 21, Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của UBTVQH: Buộc bị cáo Lê Hồng C phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các điều 6,7,7a và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự .

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

73
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 22/2023/HS-ST

Số hiệu:22/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về