Bản án về tội cướp giật tài sản số 211/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 211/2023/HS-ST NGÀY 28/12/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 256/2023/TLST- HS ngày 20/11/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 233/2023/QĐXXST-HS ngày 13/12/2023, đối với bị cáo:

Họ và tên: Thạch Minh H, sinh năm 1992, tại T; nơi ĐKHKTT: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh T; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 6/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Khơ me; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông Thạch K và bà Thạch Thị L; bị cáo có vợ tên Thạch Thị H1 và có 03 con, lớn nhất sinh năm 2009, nhỏ nhất sinh năm 2015; Tiền án – tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ và tạm giam từ ngày 19/7/2023 đến nay, có mặt.

Bị hại: Chị Trần Thị Cẩm T, sinh ngày 29/3/2005; hộ khẩu thường trú: Số A, AT, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre; chỗ ở hiện nay: Số B, đường L, phường P, thành phố T, tỉnh B, vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Thạch Thị H1, sinh năm 1989; hộ khẩu thường trú: Ấp T, xã N, huyện C, tỉnh T; chỗ ở hiện nay: Nhà trọ K, số 4/15, khu nhỏ, khu phố H, phường T, thành phố A, tỉnh B, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 24/5/2023, Thạch Minh H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G-xxxxx lưu thông trên Quốc lộ 13 theo hướng từ thành phố Thuận An về thành phố T, tỉnh B. Khi đến đoạn gần giao lộ Quốc lộ 13 và đường Lê Hồng Phong (ngã tư Địa Chất), H nhìn thấy chị Trần Thị Cẩm T đang đứng trên hàng lang của Quốc lộ 13 (ở phía bên trái đường theo chiều đi của H), đoạn qua Khu phố 7, phường Phú Thọ, thành phố T, tỉnh B để đón xe khách và trên tay của chị T đang cầm 01 (một) điện thoại di động nên H nảy sinh ý định chiếm đoạt điện thoại di động của chị T. Thực hiện ý định trên, H điều khiển xe mô tô biển số 84G-xxxxx chạy đến ngã tư Địa Chất để quay đầu xe lại rồi chạy đến chỗ của chị T đang đứng và nhanh chóng dùng tay pH giật lấy điện thoại di động của chị T. Sau đó, H quay đầu xe, chạy ngược chiều và rẽ sang pH đường để băng qua ngã tư Địa Chất rồi tiếp tục lưu thông trên Quốc lộ 13 để chạy về hướng tỉnh Bình Phước.

Đến khoảng 00 giờ ngày 25/5/2023, khi Thạch Minh H điều khiển xe mô tô biển số 84G-xxxxx lưu thông trên Quốc lộ 13 đến đoạn qua thị trấn Tân Khai, huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước thì bị lực lượng tuần tra Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hớn Quản phối hợp với Công an thị trấn Tân Khai nhìn thấy H có biểu hiện nghi vấn nên yêu cầu H dừng xe để kiểm tra thì phát hiện trên người của H có 02 (hai) điện thoại di động, gồm: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím, gắn ốp lưng bằng nhựa trong suốt và mặt trong của ốp lưng có dán 01 (một) hình con mèo (linh phù), màu vàng (điện thoại đang trong trạng thái bị khóa mật khẩu màn hình nhưng H không mở được) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno, màu xanh-tím. Qua làm việc, H khai nhận điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno, màu xanh-tím là của H, còn điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím là do H đã chiếm đoạt của chị Trần Thị Cẩm T trên địa bàn thành phố T, tỉnh B nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hớn Quản đã lập biên bản tạm giữ đối với 02 (hai) điện thoại di động nêu trên và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G-xxxxx, đồng thời cho H về nhà để Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hớn Quản phối hợp với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T tiếp tục kiểm tra, xác minh.

Ngày 25/5/2023, chị T đã đến Công an phường Phú Thọ để trình báo sự việc. Sau đó, Công an phường Phú Thọ đã chuyển hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T để thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 17/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước đã chuyển hồ sơ vụ việc và các vật chứng đã thu giữ đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T để giải quyết theo thẩm quyền.

Ngày 19/7/2023, Thạch Minh H đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T để làm việc và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu trên, đồng thời giao nộp 01 (một) quần Jean, màu xám-đen và 01 (một) áo khoác màu đen, sọc xanh dài tay có in chữ Adidas để phục vụ cho công tác điều tra.

Căn cứ các Bản kết luận định giá tài sản số 180/KLTS-HĐĐGTS ngày 30/5/2023 và Bản kết định giá tài sản bổ sung số 338/KLTS-HĐĐGTS ngày 09/11/2023 của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự thành phố T, kết luận: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím, trị giá 34.700.000đ (ba mươi bốn triệu, bảy trăm nghìn đồng); 01 (một) ốp lưng bằng nhựa trong suốt, trị giá 50.000đ (năm mươi nghìn đồng) và 01 (một) hình mèo (linh phù), màu vàng, trị giá 10.000đ (mười nghìn đồng). Như vậy, tổng trị giá tài sản mà Thạch Minh H đã chiếm đoạt của chị Trần Thị Cẩm T là 34.760.000đ (ba mươi bốn triệu, bảy trăm sáu mươi nghìn đồng).

Ngày 20/7/2023, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T đã trả lại 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím, gắn ốp lưng bằng nhựa trong suốt và mặt trong của ốp lưng có dán 01 (một) hình con mèo (linh phù), màu vàng cho chị Trần Thị Cẩm T theo Quyết định xử lý vật chứng số 135/QĐ- ĐTTH cùng ngày 20/7/2023. Chị T không có yêu cầu gì khác đối với Thạch Minh H.

Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G- xxxxx, quá trình điều tra xác định do Thạch Minh H đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô.

Đối với 01 (một) quần Jean, màu xám-đen và 01 (một) áo khoác màu đen, sọc xanh dài tay có in chữ Adidas thu giữ của Thạch Minh H, là quần áo H đã mặc khi thực hiện hành vi phạm tội và không còn giá trị sử dụng.

Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno, màu xanh-tím, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Thạch Thị H1, sinh năm 1989, cư trú tại ấp T, xã N, huyện C, tỉnh T. Chị H1 là vợ của Thạch Minh H.

Cáo trạng số 242/CT-VKSTDM-HS ngày 20/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Thạch Minh H về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Thạch Minh H, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Thạch Minh H mức hình phạt từ 03 năm 03 tháng tù đến 03 năm 09 tháng tù.

- Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu nên không xem xét.

- Về biện pháp tư pháp:

+ Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G- xxxxx, quá trình điều tra xác định do Thạch Minh H đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và H đã dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên đề nghị tịch thu sung vào Quỹ Nhà nước.

+ Đối với 01 (một) quần Jean, màu xám-đen và 01 (một) áo khoác màu đen, sọc xanh dài tay có in chữ Adidas hiện không còn giá trị sử dụng và bị cáo H đồng ý tịch thu tiêu huỷ nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno, màu xanh-tím, quá trình điều tra xác định là tài sản của chị Thạch Thị H1, chị H1 không biết hành vi phạm tội của H do đó, đề nghị trả lại cho chị H1.

Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo Thạch Minh H không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và không có ý kiến tranh luận. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến gì về quyết định truy tố của Viện kiểm sát và không có yêu cầu gì đối với vụ án.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo biết hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Thạch Minh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án và vật chứng thu giữ cùng các tài liệu điều tra có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 24/5/2023, tại khu vực hành lang Quốc lộ 13, đoạn qua Khu phố 7, phường Phú Thọ, thành phố T, tỉnh B, Thạch Minh H đã dùng thủ đoạn nguy hiểm là điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G-xxxxx để thực hiện hành vi cướp giật 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 Promax, màu tím, gắn ốp lưng bằng nhựa trong suốt và mặt trong của ốp lưng có dán 01 (một) hình mèo (linh phù), màu vàng có tổng trị giá là 34.760.000đ (ba mươi bốn triệu, bảy trăm sáu mươi nghìn) đồng của bị hại Trần Thị Cẩm T rồi nhanh chóng điều khiển xe bỏ chạy. Hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật, nhưng vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Vì vậy, cần có mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện, để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội, đồng thời nhằm đấu tranh phòng chống tội phạm chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tài sản đã được thu hồi và giao trả cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với bị cáo là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

[8.1] Đối với 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G-xxxxx, quá trình điều tra xác định do Thạch Minh H đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô và H đã dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu sung vào Quỹ Nhà nước.

[8.2] Đối với 01 (một) quần Jean, màu xám-đen và 01 (một) áo khoác màu đen, sọc xanh dài tay có in chữ Adidas là tài sản cá nhân không liên quan đến hành vi phạm tội của H nên trả lại cho bị cáo H.

[8.3] Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO Reno, màu xanh-tím, là tài sản cá nhân của chị Thạch Thị H1 và không liên quan đến vụ án nên trả lại cho chị H1.

[9] Về án phí: Bị cáo pH nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;

Căn cứ các điều 106, 136, 260, 331, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Thạch Minh H phạm tội “Cướp giật tài sản”.

1/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Thạch Minh H 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 19/7/2023.

2/ Về trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong.

3/ Về vật biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Tịch thu sung Quỹ Nhà nước 01 (một) xe mô tô đã qua sử dụng nhãn hiệu Suzuki Raider, màu đỏ-đen, biển số 84G-xxxxx, số khung 118108, số máy 1518211.

- Trả lại cho bị cáo Thạch Minh H: 01 (một) quần Jean đã qua sử dụng, màu xám-đen và 01 (một) áo khoác đã qua sử dụng màu đen, sọc xanh dài tay có in chữ Adidas.

- Trả lại cho chị Thạch Thị H1 01 (một) điện thoại di động đã qua sử dụng nhãn hiệu OPPO Reno, màu xanh-tím, mặt lưng bị trầy.

(Thể hiện tại Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 030.24 lập ngày 14/11/2023 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố T với Chi cục thi hành án dân sự thành phố T) 4/ Về án phí sơ thẩm: Bị cáo Thạch Minh H pH chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5/ Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên toà được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 211/2023/HS-ST

Số hiệu:211/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về