TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 196/2020/HS-PT NGÀY 07/05/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 07/5/2020 tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 126/2020/TLPT-HS ngày 27 tháng 02 năm 2020 đối với bị cáo Võ Minh L do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo kháng cáo:
Võ Minh L; sinh năm 1992 tại Đồng Tháp; Thường trú: Ấp C xã S, huyện N, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông VNNE (chết) và bà LTT; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ; tiền sự: Không;
Tiền án: Ngày 14/9/2012, bị Toà án nhân dân Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 90/2012/HSST). Bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/4/2013. Bị cáo chưa thi hành phần án phí hình sự sơ thẩm Nhân thân: Ngày 17/12/2014, Toà án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (Bản án số 381/2014/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/02/2016, đóng án phí ngày 4/11/2015.
Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 02/8/2019 (Có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 13 giờ ngày 02/8/2019, Võ Minh L điều khiển xe mô tô biển số 51TB-6071 qua nhiều tuyến đường để tìm tài sản cướp giật. Khi đến trước đường X, khu phố M, phường B, quận P, L phát hiện chị Huỳnh Thị Kim T đang đi bộ trên cổ có đeo sợi dây chuyền màu vàng, L liền điều khiển xe áp sát từ phía sau bên phải chị T rồi dùng tay trái giật sợi dây chuyền trên cổ chị T, sau đó tăng ga tẩu thoát. Chị T tri hô “cướp cướp”. . và cùng người dân đuổi khoảng 50m thì bắt giữ được L cùng vật chứng giao Công an phường Bình Trị Đông B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận Bình Tân thụ lý điều tra theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ gồm:
+ 01 sợi dây chuyền bằng vàng 18K, trọng lượng 01 chỉ 06 phân do bị cáo Võ Minh L giật của chị Huỳnh Kim T.
+ 01 xe môtô biển số 51TB-6071, số máy 39FMB-804297, số khung 1RR6D-804297, thu giữ của bị cáo Võ Minh L. Bị cáo khai xe trên mượn của em ruột là Võ Luân E để đi công việc sau đó dùng làm phương tiện để thực hiện hành vi cướp giật. Qua làm việc, Võ Luân E khai xe trên mua với giá 5.000.000 đồng, của một người không rõ nhân thân lai lịch, và không làm giấy tờ mua bán. Qua xác minh, xe trên do HĐM đứng tên chủ sở hữu, hiện Minh không có tại nơi cư trú nên không tiến hành làm việc được. Cơ quan điều tra đã tiến hành đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng cho đến nay chưa có ai đến liên hệ làm việc. Vật chứng trên cơ quan điều tra đã chuyển đến Chi cục thi hành án dân sự quận Bình Tân chờ xử lý.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 1551/KL-HĐĐGTS ngày 16/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong Tố tụng hình sự quận Bình Tân kết luận: 01 dây chuyền vàng 18K, có trọng lượng 01 chỉ 06 phân đã qua sử dụng có giá 4.592.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự: Chị Huỳnh Kim T đã nhận lại tài sản bị cướp giật 01 dây chuyền vàng 18K, có trọng lượng 01 chỉ 06 phân và không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an quận Bình Tân, Võ Minh L đã khai nhận hành vi phạm tội như đã nêu trên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 08/2020/HS-ST ngày 14/01/2020 của Tòa án nhân dân Quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Võ Minh L phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Võ Minh L 05 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/8/2019. Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/01/2020 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích nội dung, phân tích tính chất vụ án, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi phạm tội: Căn cứ lời khai của bị cáo, kết hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã được Cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án xét đã có đủ cơ sở pháp lý kết luận:
Vào ngày 02/8/2019, tại trước số 574/15/31 đường X, Khu phố M, phường B, quận P, bị cáo L đã có hành vi điều khiển xe mô tô biển số 51TB-6071 chạy phía sau đến áp sát bên phải chị Huỳnh Thị Kim T rồi dùng tay trái giật sợi dây chuyền bằng vàng 18K, trọng lượng 01 chỉ 06 phân trị giá 4.592.000 đồng của chị T rồi sau đó tăng ga tẩu thoát. Chị T tri hô và cùng người dân truy đuổi khoảng 50m thì bắt giữ được L cùng vật chứng giao Công an phường Bình Trị Đông B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
[2] Với hành vi như đã nêu trên của bị cáo, xét thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có cơ sở, đúng người, đúng tội. [3] Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an xã hội. Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2012 bị xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích, đến năm 2014 bị cáo cũng đã bị Tòa án nhân dân quận Bình Tân xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản”. Tòa án cấp sơ thẩm cũng xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản đã thu hồi trả lại cho người bị hại để áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và xử phạt bị cáo mức hình phạt 05 năm tù là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra. Mặt khác, trước và tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cũng không xuất trình được tình tiết gì mới khác để Hội đồng xét xử xem xét. Do đó, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên mức hình phạt mà án hình sự sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Võ Minh L 05 (năm) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 02/8/2019.
2. Bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không có kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 196/2020/HS-PT
Số hiệu: | 196/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/05/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về