TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH CHƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 17/2022/HSST NGÀY 14/04/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 14 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ an xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số19/2022/TLST- HS ngày 22 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 23/2022/QĐXXST- HS ngày 31 tháng 3 năm 2022 đối với bị cáo:
Họ và tên: Phạm Văn B, sinh năm 1986 tại huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: Xóm X, xã T, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc:Kinh; giới tính:Nam; tôn giáo:không; quốc tịch:Việt Nam; con ông Phạm Xuân T, sinh năm 1954 và bà Nguyễn Thị C, sinh năm 1955; Có vợ là Trần Thị L ( đã chết); Con có 02 người, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2016; Anh, chị em ruột có 06 người, bị cáo là con thứ 05; Tiền án, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 30/06/2010, bị Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp Hnh án xong bản án ngày 30/8/2011; Ngày 16/8/2016, bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng B xử phạt 20 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”.Chấp Hnh án xong bản án ngày 28/4/2017.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 25/12/2021 đến ngày 02/01/2022. Hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “ Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Bà Võ Thị H - Trợ giúp viên trung tâm trợ giúp pháp lý NH nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.
Bị hại: Chị Nguyễn Thị H , sinh năm 1982, trú tại xóm K, xã T, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ 00 phút, ngày 24/12/2021, Phạm Văn B đi đến nH thờ Giáo xứ Văn THnh, ở xóm Giang Liên, xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An để chơi lễ Noel. Khi đến nơi, B đi bộ đến một quan tạp hóa ở bên phải, nhà thờ khoảng 50m để mua thuốc lá. Mua xong, B đi bộ sang bên phải đường và đi đến cổng nhà thờ. Khi đến trước cổng nhà thờ, B thấy chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982, trú tại xóm K, xã T, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đang bước lên xe mô tô để đi về theo hướng đến xã Thanh Xuân. B phát hiện thấy ở túi quần phía trước bên trái của chị H có để 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO F11 PRO, màu xanh, có vỏ ốp màu trắng để lộ ra bên ngoài. Thấy vậy, B đi theo hướng đối diện đến phía bên trái người của chị H và dùng tay phải giật lấy chiếc điện thoại trong túi quần chị H, rồi nhanh chóng bỏ chạy vào trong khuôn viên nH thờ. Bị giật điện thoại, chị H hô hoán mọi người và đuổi theo B. Thấy chị H hô hoán và đuổi theo B, Lực lượng Công an đang làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh trật tự dịp lễ Noel ở đây cùng người dân đã hỗ trợ chị H đuổi bắt B. Khi B chạy đến khu vực bên phải nH thờ, thì bị lực lượng Công an cùng người dân và chị H đuổi kịp, bắt giữ. Lúc này, B vứt chiếc điện thoại di động vừa cướp giật được của chị H xuống gốc cây ở gần đó. Tuy nhiên hành vi này của B đã bị lực lượng Công an và mọi người phát hiện. Ngay sau đó, lực lượng Công an đã thu giữ chiếc điện thoại B vừa giật của chị H.
Ngày 27/12/2021, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Thanh Chương ra quyết định trưng cầu định giá chiếc điện thoại OPP F11 Pro mà B chiếm đoạt của chị H. Tại Kết luận định giá tài sản số 99/KL-ĐG ngày 28/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An kết luận: Chiếc điện thoại OPP F11 Pro, màu xanh, vỏ ốp mà trắng có trị giá 2.000.000 đồng ( Hai triệu đồng) Về vật chứng: Trong quá trình điều tra đã thu giữ Chiếc điện thoại OPP F11 Pro màu xanh, vỏ ốp mà trắng Cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị H đã nhận lại tài sản, nên không yêu cầu bồi thường gì thêm.
Bản cáo trạng số 22/CT -VKS ngày 14 tháng 3 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An truy tố Phạm Văn B về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa Đại diên Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Phạm Văn B phạm tội “Cướp giật tài sản” Áp dụng: Khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Phạm Văn B từ 12 đến 15 tháng tù. Miễn hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên không xem xét.
Về án phí: Bị cáo Phạm Văn B thuộc diện hộ nghèo năm 2022 và có ý kiến xin miễn án phí, do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Phạm Văn B không tranh luận về chứng cứ và tội danh mà Viện kiểm sát truy tố bị cáo. Luật sư có ý kiến: Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc diện hộ nghèo; vợ chết, hai con còn nhỏ, bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình; số tiền phạm tội không lớn; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; trong quá trình điều tra và tại phiên toà thật tH khai báo, ăn năn hối cải. Đề nghị HĐXX áp dụng: Khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử phạt bị cáo mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị tịa phiên tòa. Miễn hình phạt bổ sung và án phí cho bị cáo.
Bị cáo Phạm Văn B thừa nhận Hnh vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố và không tranh luận gì với đại diện Viện kiểm sát, không bổ sung lời bào chữa của luật sư, gia đình bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc diện hộ nghèo năm 2022; vợ chết sớm, bị cáo đang phải nuôi hai con còn nhỏ, là lao động duy nhất trong gia đình, vì vậy bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ở mức thấp nhất.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án từ khi khởi tố, điều tra, truy tố thì Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo; người bào chữa cho bị cáo; bị hại không có khiếu nại về các Hnh vi và quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:Tại phiên tòa bị cáo Phạm Văn B khai nhận toàn bộ Hnh vi phạm tội của mình như bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với vật chứng thu được; phù hợp lời khai bị hại; lời khai người làm chứng; phù hợp với biên bản phạm tội quả tang; phù hợp với bản kết luận định giá tài sản và các chứng cứ tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.
Có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 21 giờ, ngày 24/12/2021, tại khu vực cổng nH thờ Giáo xứ Văn Thành thuộc xóm Giang Liên, xã Thanh Giang, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An, Phạm Văn B đã có Hnh vi cướp giật lấy chiếc điện thoại OPP F11 Pro màu xanh, vỏ ốp màu trắng trị giá 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) ở túi quần phía trước bên trái của chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1982, trú tại xóm K, xã T, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Hành vi nêu trên của bị cáo đã phạm vào tội “ Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự.
[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 30/06/2010, bị Toà án nhân dân huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An xử phạt 27 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Ngày 16/8/2016, bị Toà án nhân dân tỉnh Quảng B xử phạt 20 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Bị cáo không không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội tHnh khẩn khai báo; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự do đó Hội đồng xem xét để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo mức thấp nhất mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.
Bị cáo có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, thuộc diện hộ nghèo năm 2022, thu nhập thấp nên miễn hình phạt tiền là hình phạt bổ sung cho bị cáo.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại chị Nguyễn Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Về án phí: Bị cáo Phạm Văn B thuộc diện hộ nghèo và có ý kiến xin miễn án phí, do đó miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án xử:
1.Tuyên bố bị cáo: Phạm Văn B phạm tội “ Cướp giật tài sản”
2.Xử phạt: Phạm Văn B 01( Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi Hnh án. Bị cáo được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 25/12/2021 đến ngày 02/01/2022.
3.Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Phạm Văn B.
4.Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị hại có quyền kháng có bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 17/2022/HSST
Số hiệu: | 17/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Chương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 14/04/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về