Bản án về tội cướp giật tài sản số 156/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ QUY NHƠN, TỈNH BÌNH ĐỊNH

 BẢN ÁN 156/2021/HS-ST NGÀY 30/09/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

 Ngày 30 tháng 9 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Quy Nhơn, tỉnh Bình Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 158/2021/TLST-HS ngày 13/9/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 251/2021/QĐXXST-HS ngày 20/9/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Đỗ Hữu L (Thường gọi: Tý); giới tính: Nam, sinh năm 1993 tại Tuy Phước, Bình Định; Nơi cư trú: Tổ A, khu vực B, phường N, TP. Q, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 4/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Đỗ Hữu N, sinh năm 1963 và bà: Nguyễn Thị M (chết); Vợ, con: Chưa có;

Tiền án: - Ngày 01/12/2013, bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn xử phạt 03 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 14/5/2014;

- Ngày 14/12/2015, bị Tòa án nhân dân TP. Quy Nhơn xử phạt 06 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, chấp hành xong hình phạt ngày 22/01/2020;

Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 08/01/2013, bị Ủy ban nhân dân P. Nhơn Phú, TP. Quy Nhơn quyết định áp dụng biện pháp giáo dục tại phường thời hạn 06 tháng về hành vi “Xâm hại sức khỏe của người khác”, chấp hành xong ngày 08/7/2013; Bị bắt tạm giam từ ngày 14/4/2021 cho đến nay; Bị cáo có mặt.

- Bị hại:

1. Bà Nguyễn Thị Thúy L, sinh năm 1964. Vắng mặt.

Nơi cư trú: Tổ B, khu vực C, phường N, TP. Q, tỉnh Bình Định.

2. Chị Trương Thị Thu Hồng, sinh năm 1983 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ C, khu vực D, phường T, TP. Q, tỉnh Bình Định.

3. Chị Nguyễn Hồng N, sinh năm 1997 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn X, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

4. Bà Phan Thị Thanh L, sinh năm 1970 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Thôn X, xã P, huyện T, tỉnh Bình Định.

5. Bà Hồ Thị Xuân, sinh năm 1955 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ B, khu vực E, phường N, TP. Q, tỉnh Bình Định.

6. Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1969 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà A đường H, thị trấn T, huyện T, tỉnh Bình Định.

7. Bà Hồ Thị T sinh năm 1959 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ C, khu vực M, phường N, TP. Q, tỉnh Bình Định.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Huỳnh Thị Bích N, sinh năm 1997. Có mặt.

Nơi ĐKNKTT: Khu phố A, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định. Tạm trú: Tổ B, khu vực C, phường T, TP. Q, tỉnh Bình Định.

2. Anh Nguyễn Tuấn Việt, sinh năm 1982. (Vắng mặt).

Nơi cư trú: 315 đường Đ, phường N, TP. Q, tỉnh Bình Định.

3. Anh Huỳnh Trung Khôi, sinh năm 1992. (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Đội 8, thị trấn D, huyện T, tỉnh Bình Định.

4. Anh Đặng Văn H, sinh năm 1971 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Tổ B, khu vực F, phường T, TP. Q, Bình Định.

5. Chị Đào Thị Thu S, sinh năm 1985 (Vắng mặt).

Nơi cư trú: Số nhà B đường N, phường T, TP. Q, tỉnh Bình Định.

- Người tham gia tố tụng khác: Anh Võ Quí V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có nghề nghiệp và cần tiền tiêu xài nên từ ngày 16/02/2021 đến ngày 13/4/2021, Đỗ Hữu L liên tiếp thực hiện nhiều vụ cướp giật tài sản của người đi đường tại TP. Q, cụ thể:

Lần thứ nhất: Khoảng 20 giờ ngày 16/02/2021, Đỗ Hữu L điều khiển xe mô tô hiệu Wave màu đen, gắn biển số 77F7 - 5055 đi từ đường Đ rẽ vào đường hẻm “Lò heo” thuộc Tổ A, KV. B, phường N, TP. Q thì phát hiện bà Nguyễn Thị Thuý L đang điều khiển xe đạp đi cùng chiều, trên giỏ xe có 01 túi xách bằng da màu xám. L vượt qua bà Lang rồi quay xe đi ngược lại. L áp sát bên trái bà L, dùng tay trái giật lấy túi xách rồi tăng ga tẩu thoát. Sau đó, L kiểm tra bên trong túi xách có 50.000 đồng nên chiếm đoạt, rồi vứt túi xách trên đường H nhưng không nhớ rõ vị trí nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Cùng ngày, bà L đến Công an phường N trình báo sự việc. Số tiền có được, L tiêu xài hết.

Lần thứ hai: Khoảng 21 giờ ngày 16/02/2021, L điều khiển xe mô tô 77F7- 5055 đi trên đường H hướng về cầu S (đoạn công viên L) thì phát hiện anh Võ Quí V điều khiển xe mô tô hiệu 77L1 - 518.47 chở vợ là Trương Thị Thu H và 02 con chạy cùng chiều. Chị H mang một túi xách màu vàng nâu, bên trong có 8.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone 7 Plus màu vàng và giấy tờ cá nhân. L áp sát bên phải, chồm sang dùng tay trái giật lấy túi xách của chị H rồi tăng ga tẩu thoát. Chị H bị té ngã xuống đường, bị thương tích nên đến Phòng khám Đa khoa khu vực P khâu vết thương rồi báo Công an P. T giải quyết. Sau đó, L lục lấy tiền, điện thoại rồi vứt túi xách và giấy tờ cá nhân của chị H xuống khu vực cầu Đ nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Ngày 10/4/2021, L mang điện thoại Iphone 7 Plus đến tiệm điện thoại “VK” số A đường Đ, P. N, TP. Q để cầm cố cho anh Nguyễn Tuấn V (chủ tiệm). L nói dối điện thoại Iphone 7 Plus là của L nên anh V tưởng thật đã nhận cầm cố với giá 3.000.000 đồng. Số tiền có được, L đã tiêu xài hết. Ngày 12/4/2021, L dẫn Huỳnh Trung K đến gặp anh V chuộc lại điện thoại Iphone 7 Plus với giá 3.045.000 đồng. L nói dối điện thoại này của L, L không có tiền nên bảo K chuộc lại để sử dụng, anh K tưởng thật nên đồng ý.

Ngày 12/5/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: điện thoại di động hiệu Iphone 7 plus màu vàng trị giá: 5.000.000 đồng.

Ngày 18/5/2021, Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận chị Trương Thị Thu H bị thương tích với tỷ lệ 07%.

Lần thứ ba: Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/3/2021, L điều khiển xe mô tô 77F7-5055 đi trên đường T qua cầu chữ Y, P. Đ, TP. Q thì phát hiện chị Nguyễn Hồng N điều khiển xe mô tô 77G1-389.94 chở mẹ là Phan Thị Thanh L chạy cùng chiều. Phát hiện bà L có mang một túi xách da màu đen nên L tăng ga áp sát bên phải, chồm sang dùng tay trái giật lấy túi xách của bà L rồi tẩu thoát. Bà L và chị N bị té ngã xuống đường bị thương tích nên vào Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định cấp cứu điều trị. Sau đó, L kiểm tra túi xách, thấy không có tài sản nên vứt trên đường S nhưng không nhớ rõ vị trí nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Cùng ngày, Công an thành phố Q tiếp nhận tin báo của nhân dân nên đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định xác minh vụ việc.

Ngày 18/5/2021, Trung tâm pháp y tỉnh Bình Định kết luận bà Phan Thị Thanh L bị thương tật với tỷ lệ 19%; chị Nguyễn Hồng N bị thương tật với tỷ lệ 08%.

Lần thứ tư: Khoảng 18 giờ 50 phút ngày 22/3/2021, L điều khiển xe mô tô kiểu dáng Wave màu xanh, không biển số mượn của bạn tên T (không rõ lai lịch), đi trên đường T hướng về đường Hồ Văn H thuộc P. N, TP. Q thì phát hiện bà Hồ Thị X đi xe đạp cùng chiều, trên giỏ xe có 01 túi ni lông màu hồng đựng 9.000.000 đồng. L điều khiển xe áp sát bên phải bà X, chồm sang dùng tay trái giật lấy túi ni lông rồi tăng ga tẩu thoát đến đường bê tông gần trường Đại học Q kiểm tra. L lấy tiền rồi vứt bỏ túi ni lông nhưng không nhớ rõ vị trí nên không thu giữ được. Số tiền có được L tiêu xài hết. Cùng ngày, bà X đến Công an P. N trình báo sự việc.

Lần thứ năm: Khoảng 9 giờ ngày 7/4/2021, L điều khiển xe mô tô 77F7- 5055 đi trên đường Đ, TP. Q thì phát hiện bà Nguyễn Thị H đi xe mô tô 77L1- 673.66 cùng chiều hướng về cầu chợ D, trên ba ga xe có để một túi xách màu đen, bên trong túi xách có 115.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung A5 màu vàng đồng, 01 điện thoại di động hiệu Samsung M20 màu xanh và giấy tờ cá nhân. L điều khiển xe bám theo đến trước số nhà A đường Đ thì áp sát bên phải bà H, chồm sang dùng tay trái giật lấy túi xách rồi tăng ga tẩu thoát. Sau đó, L lục lấy tiền và điện thoại rồi vứt bỏ túi xách cùng giấy tờ cá nhân của bà H xuống sông H nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. L đem điện thoại Samsung M20 cầm cố cho anh Nguyễn Tuấn V. Khi cầm cố, L nói dối điện thoại Samsung M20 là của L nên anh V tưởng thật đã nhận cầm cố với giá 1.200.000 đồng. Riêng điện thoại Samsung A5, Lộc cất giấu tại phòng trọ. Số tiền có được L tiêu xài hết. Cùng ngày, bà H đến Công an phường N trình báo sự việc.

Ngày 12/5/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: điện thoại di động hiệu Samsung A5 màu vàng đồng trị giá: 1.500.000 đồng; điện thoại Samsung M20 trị giá 1.500.000 đồng.

Lần thứ sáu: Khoảng 19 giờ ngày 13/4/2021, L 0điều khiển xe mô tô 77F7-5055 đi trên đường Đ (đoạn gần cầu số 7) thì phát hiện bà Hồ Thị T đang điều khiển xe đạp đi cùng chiều hướng về chợ D, trên giỏ xe đạp có để 01 túi xách, bên trong túi xách có 01 điện thoại Samsung Galaxy E7 màu trắng và 195.000 đồng. L điều khiển xe áp sát bên phải bà T, chồm sang dùng tay trái giật lấy túi xách rồi tăng ga tẩu thoát. Sau đó, L lục lấy tiền và điện thoại cất vào người rồi vứt túi xách trên đường tẩu thoát nhưng không nhớ rõ vị trí nên Cơ quan điều tra không thu hồi được. Đến ngày 14/4/2021, bà T đến Công an phường N trình báo sự việc.

Ngày 12/5/2021, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy E7 màu trắng trị giá: 800.000 đồng.

Ngoài những vụ nêu trên, bị cáo L còn khai nhận đã cướp giật 02 vụ khác trên địa bàn TP. Q, gồm: Vào khoảng 20 giờ một ngày đầu tháng 4/2021 trên đường T, TP. Q, bị cáo chiếm đoạt của 02 người phụ nữ đi xe mô tô 01 điện thoại di động loại có phím bấm. Vào khoảng 18 giờ ngày 10/4/2021 bị cáo chiếm đoạt của một người đi xe mô tô 01 ví da có 01 điện thoại di động và 375.000 đồng trên đường H, TP. Q. Tuy nhiên, Đỗ Hữu L khai không xác định rõ thời gian, tài sản bị chiếm đoạt, chi tiết nhận dạng về người và phương tiện của bị hại. Cơ quan CSĐT Công an TP. Q đã thông báo truy tìm bị hại nhưng chưa xác định được.

Ngày 14/4/2021, Cơ quan CSĐT Công an TP. Q tiến hành truy xét đã phát hiện Đỗ Hữu L là người thực hiện các vụ giật tài sản trên nên đưa về trụ sở làm việc và tiến hành khám xét chỗ ở của Đỗ Hữu L tại nhà trọ ở Tổ A, KV. B, P. T, TP. Q.

Về vật chứng: Cơ quan điều đã khám xét chỗ ở của Đỗ Hữu L tạm giữ:

- 01 điện thoại hiệu Samsung A5 màu vàng đồng;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu bạc;

- 01 điện thoại hiệu Iphone 4S màu trắng, dung lượng 8GB, bị vỡ kính mặt sau;

- 01 điện thoại hiệu Philips Xenium E168 màu đen;

- 01 điện thoại hiệu Nokia 1202 màu xanh dương;

- 01 cục sạc dự phòng hiệu Samsung màu trắng đen, dung lượng 30.000 mAh;

- 01 cục sạc dự phòng hiệu Hoco, model J27A, dung lượng 20.000 mAh;

- 01 mũ vải lưỡi trai màu đen, đã qua sử dụng;

- 01 mũ vải lưỡi trai màu xám, có thêu 03 sọc màu trắng phía trước, đã qua sử dụng;

- 01 quần sọt thun màu đen, có đường kẻ sọc màu trắng và cam dọc hai bên, có kí tự màu trắng “Sport” phía trước bên trái, đã qua sử dụng;

- 01 áo thun màu trắng ngắn tay, phía trước bên trái có kí tự “Nike”, đã qua sử dụng;

- 01 áo thun có cổ màu đen, dọc hai tay áo có màu đỏ, dọc trên thân áo có sọc trắng, có kí tự “VTB” màu đỏ, đã qua sử dụng;

- 01 túi xách da màu đen, có quai đeo bằng kim loại, kích thước (16x21)cm, đã qua sử dụng;

- 01 túi xách da màu đỏ vàng đen, có logo “Burberry”, quai đeo bằng vải, kích thước (20x12)cm, đã qua sử dụng;

- 01 ví da màu nâu, gắn logo “YL”, kích thước (21x10)cm, đã qua sử dụng;

- 01 xe máy kiểu dáng Wave màu đen, gắn biển số 77F7 - 5055, hiệu máy Wayec, số khung: RMMWCH6MM71622626, số máy bị mài phá;

Cơ quan điều tra tạm giữ từ Đỗ Hữu L:

- 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy E7 màu trắng;

- 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại C110 màu đen-đỏ, biển số 77N3-5237, số máy: 5C64 - 297145, số khung: RLCS5C640AY297146, đã qua sử dụng;

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô số: 003320, biển đăng ký: 77N3 - 5237, tên chủ sở hữu: Nguyễn Xuân T; 1991, địa chỉ: Phú G, Cát T, huyện P;

- 01 hợp đồng cầm đồ của cửa hàng điện thoại di động Tân Hạnh N đối với điện thoại OPPO A52 vào ngày 31/3/2021;

- 01 hợp đồng cầm đồ của dịch vụ cầm đồ M nội dung Tý cầm điện thoại Sam Sung A31 với giá 2.500.000 đồng vào ngày 29/3/2021;

- 01 hợp đồng cầm đồ của dịch vụ cầm đồ M đối với điện thoại Samsung A51 vào ngày 07/4/2021;

- 01 (một) hợp đồng cầm đồ của cửa hàng điện thoại V đối với điện thoại Samsung M20 vào ngày 09/4/2021;

- Số tiền 560.000 đồng.

Cơ quan điều tra tạm giữ từ những người có liên quan:

- Tạm giữ của Đặng Văn H điện thoại 01 Samsung A31 và 01 điện thoại Samsung A51;

- Tạm giữ của Huỳnh Trung K điện thoại Iphone 7 Plus;

- Tạm giữ của Nguyễn Tuấn V 01 điện thoại Oppo F1S và 01 điện thoại Samsung M20;

- Tạm giữ của Đào Thị Thị Thu S 01 điện thoại Oppo A52.

Quá điều tra xác định: 01 điện thoại Samsung A5, 01 điện thoại Iphone 7 Plus, 01 điện thoại Samsung M20, 01 điện thoại Samsung E7 là điện thoại do Đỗ Hữu L cướp giật được; đối với 02 mũ lưỡi trai, 01 quần sọt, 02 áo thun và xe mô tô biển số 77F7-5055 là quần áo, phương tiện mà L sử dụng đi giật tài sản.

Đối với 01 điện thoại Iphone 6 Plus, 01điện thoại Iphone 4S, 01 điện thoại Nokia 1202, 01 điện thoại Samsung A31, 01 điện thoại Samsung A51 là tài sản của Lộc; điện thoại Oppo F1S, 02 cục sạc dự phòng, 02 túi xách, 01 ví da là tài sản của Huỳnh Thị Bích N là người sống như vợ chồng với L tại nhà trọ.

Xe mô tô gắn biển số 77F7 - 5055 do Huỳnh Thị Bích N mua lại của người khác không rõ nguồn gốc; đối với xe mô tô 77N3-5237 cùng giấy đăng ký xe mô tô do Đỗ Hữu L cầm cố từ người tên “Phúc bum” (không rõ lai lịch); điện thoại Philips Xenium E168 và điện thoại Oppo A52 do Lộc nhặt được, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không tìm được chủ sỡ hữu.

Cơ quan điều tra đã xử lý trả lại: 01 điện thoại Iphone 7 Plus màu vàng đồng cho chị Trương Thị Thu H; 01 điện thoại Samsung Galaxy A5 và 01 điện thoại Samsung Galaxy M20 cho bà Nguyễn Thị H; 01 điện thoại Samsung Galaxy E7 màu trắng cho bà Hồ Thị T; 02 cục sạc dự phòng, 02 túi xách, 01 ví da cho Huỳnh Thị Bích N.

Hiện còn đang tạm giữ: 01 điện thoại Oppo A52; 01 điện thoại Oppo F1S; 01 điện thoại 01 Samsung A31; 01 điện thoại Samsung A51; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu bạc; 01 điện thoại hiệu Iphone 4S màu trắng, dung lượng 8GB, bị vỡ kính mặt sau; 01 điện thoại hiệu Philips Xenium E168 màu đen; 01 điện thoại hiệu Nokia 1202 màu xanh dương; 01 mũ vải lưỡi trai màu đen; 01 mũ vải lưỡi trai màu xám, có thêu 03 sọc màu trắng phía trước; 01 quần sọt thun màu đen, có đường kẻ sọc màu trắng và cam dọc hai bên, có kí tự màu trắng “Sport”; 01 áo thun màu trắng ngắn tay, phía trước bên trái có kí tự “Nike”; 01 áo thun có cổ màu đen, dọc hai tay áo có màu đỏ, dọc trên thân áo có sọc trắng, có kí tự “VTB” màu đỏ; 01 xe máy kiểu dáng Wave màu đen, gắn biển số 77F7 - 5055, hiệu máy Wayec; 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại C110 màu đen-đỏ, biển số 77N3-5237 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô; 04 hợp đồng cầm đồ và số tiền 560.000 đồng.

Ngày 07/5/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Định kết luận xe mô tô gắn biển số 77F7 5055, kiểu dáng Wave màu đen, gửi giám định có số khung: RMMWCH6MM71622626 là nguyên thủy; số máy không phục hồi được do mài sâu.

Về dân sự: Các bị hại yêu cầu Đỗ Hữu L bồi thường do tài sản bị chiếm đoạt và chi phí điều trị thương tích: chị Trương Thị Thu H số tiền 8.000.000 đồng; bà Hồ Thị X số tiền 9.000.000 đồng; bà Phan Thị Thanh L số tiền 32.246.467 đồng. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan yêu cầu Đỗ Hữu L hoàn trả: Nguyễn Tuấn V số tiền 2.000.000 đồng; Đặng Văn H số tiền 2.500.000 đồng; Đào Thị Thu S số tiền 2.5000.000 đồng. Riêng Đặng Văn H yêu cầu Huỳnh Thị Bích N hoàn trả số tiền 2.500.000 đồng.

Các bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hồ Thị T, Nguyễn Hồng N, Huỳnh Trung K, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Thúy L không yêu cầu bồi thường.

Hiện bị cáo Đỗ Hữu L chưa bồi thường cho các bị hại và hoàn trả số tiền theo yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

- Tại bản cáo trạng số 160/CT-VKSQN ngày 10/9/2021 Viện kiểm sát nhân dân TP. Q truy tố bị Đỗ Hữu L về tội “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm b, d, e, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Đỗ Hữu L thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng đã truy tố. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Đỗ Hữu L về tội “Cướp giật tài sản” theo Cáo trạng. Đề nghị HĐXX áp dụng điểm b, d, e, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Hữu L từ 07 năm đến 08 năm tù.

* Về bồi thường thiệt hại:

- Đề nghị HĐXX buộc cáo Đỗ Hữu L có nghĩa vụ:

+ Bồi thường cho: Chị Trương Thị Thu H số tiền 8.000.000 đồng; bà Hồ Thị X số tiền 9.000.000 đồng; bà Phan Thị Thanh L số tiền 32.246.467 đồng.

+ Hoàn trả cho: Anh Nguyễn Tuấn V số tiền 2.000.000 đồng; anh Đặng Văn H số tiền 2.500.000 đồng; bà Đào Thị Thu S số tiền 2.5000.000 đồng.

- Đề nghị HĐXX buộc chị Huỳnh Thị Bích N hoàn trả cho: Anh Đặng Văn H số tiền 2.500.000 đồng.

* Xử lý vật chứng:

- Đề nghị HĐXX trả lại cho bị cáo: 01 điện thoại Oppo A52; 01 điện thoại 01 Samsung A31; 01 điện thoại Samsung A51; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu bạc; 01 điện thoại hiệu Iphone 4S màu trắng, dung lượng 8GB, bị vỡ kính mặt sau; 01 điện thoại hiệu Philips Xenium E168 màu đen; 01 điện thoại hiệu Nokia 1202 màu xanh dương; 01 xe mô tô hiệu Yamaha loại C110 màu đen-đỏ, biển số 77N3-5237 cùng giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô;

04 hợp đồng cầm đồ và số tiền 560.000 đồng.

- Đề nghị HĐXX trả lại cho chị Huỳnh Thị Bích N: điện thoại Oppo F1S.

+ Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy: 01 mũ vải lưỡi trai màu đen; 01 mũ vải lưỡi trai màu xám, có thêu 03 sọc màu trắng phía trước; 01 quần sọt thun màu đen, có đường kẻ sọc màu trắng và cam dọc hai bên, có kí tự màu trắng “Sport”; 01 áo thun màu trắng ngắn tay, phía trước bên trái có kí tự “Nike”; 01 áo thun có cổ màu đen, dọc hai tay áo có màu đỏ, dọc trên thân áo có sọc trắng, có kí tự “VTB” màu đỏ + Đề nghị HĐXX trả lại cho chị Huỳnh Thị Bích N: Xe mô tô gắn biển số 77F7 – 5055 nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo tự bào chữa: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, không bào chữa. Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Quy Nhơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Quy Nhơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Do cần tiền tiêu xài cá nhân, bị cáo Đỗ Hữu L nảy sinh ý định dùng xe mô tô đi dạo trên các tuyến đường ở thành phố Q tìm những phụ nữ đi xe đạp, xe mô tô có mang theo tài sản thì bị cáo ép sát xe mô tô vào bị hại để giật lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát, rồi đem tài sản chiếm đoạt được đi bán, cầm cố lấy tiền tiêu xài. Với thủ đoạn trên, từ ngày 16/02/2021 đến ngày 13/4/2021, bị cáo đã chiếm đoạt nhiều tài sản của các bị hại Nguyễn Thị Thúy L, Trương Thị Thu H, Nguyễn Hồng N, Phan Thị Thanh L, Hồ Thị X, Nguyễn Thị H, Hồ Thị T có tổng trị giá 26.160.000 đồng.

Bị cáo Đỗ Hữu L có đầy đủ sức khỏe, năng lực để nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên phải biết dùng xe mô tô là nguồn nguy hiểm cao độ (dùng thủ đoạn nguy hiểm) để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, do tham lam, xem thường pháp luật, tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác bị cáo cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo không nghề nghiệp ổn định, lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống, lấy tiền bán các tài sản chiếm đoạt được làm nguồn sống chính và bị cáo đã phạm tội 05 lần trở lên; trong quá trình giật lấy tài sản của bị hại Trương Thị Thu H, chị Nguyễn Hồng N, bà Phan Thị Thanh L làm cho các bị hại té ngã xuống đường, hậu quả chị H bị thương tích 07%, chị N bị thương tích 08%, bà L bị thương tích 19%; bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích tiếp tục phạm tội do cố ý nên phạm tội với tình tiết tăng nặng “Tái phạm nguy hiểm”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân TP. Quy Nhơn truy tố bị cáo Đỗ Hữu Lộc về tội: “Cướp giật tài sản” với các tình tiết “Có tính chất chuyên nghiệp”, “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”, “Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%” “Tái phạm nguy hiểm” theo quy định tại điểm b, d, e, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng tội.

[3] Hành vi do bị cáo Đỗ Hữu L gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, trị an ở địa phương nên phải xử phạt nghiêm, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ của bị cáo thì thấy rằng: Bị cáo có nhân thân xấu, đã bị Tòa án đưa ra xét xử nhiều lần. Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Đỗ Hữu L 06 lần dùng xe mô tô thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của bị hại nên phạm tội với tình tiết tăng nặng “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo khai báo thành khẩn, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự nên xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo an tâm cải tạo tốt.

[5] Về bồi thường thiệt hại:

- Các bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Hồ Thị T, Nguyễn Hồng N, Huỳnh Trung K, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị Thúy L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường gì thêm nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Bị hại Trương Thị Thu H đã nhận lại điện thoại bị chiếm đoạt, còn số tiền 8.000.000 đồng bị cáo chiếm đoạt chị H, chị H yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại nên buộc bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại cho chị H số tiền trên. Ngoài ra bị cáo làm cho chị H té ngã bị thương tích 07%, chị H tự điều trị và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường nên HĐXX không xem xét giải quyết.

- Bị hại Hồ Thị X yêu cầu bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại số tiền bị chiếm đoạt là 9.000.000 đồng, nên buộc bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại cho chị H số tiền trên.

- Bị cáo điều khiển xe mô tô ép sát vào chị Nguyễn Hồng N đang điều khiển xe mô tô chở bà Phan Thị Thanh L làm cho chị N, bà L ngã xuống đường bị thương tích, chị N bị thương với tỷ lệ thương tật 08%, bà L bị thương với tỷ lệ thương tật 19%. Chị N tự điều trị và không yêu cầu bồi thường nên HĐXX không xem xét giải quyết. Bà Phan Thị Thanh L bị thương tích được đưa đi cấp cứu và điều trị tai Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Định với chi phí điều trị là 32.246.467 đồng, bà L yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền đã chi phí. Tại phiên tòa, bị cáo đồng ý bồi thường cho bà L số tiền 32.246.467 đồng. Xét thấy, sự thỏa thuận bồi thường giữa bị cáo và bị hại không trái quy định của pháp luật nên HĐXX công nhận.

- Anh Nguyễn Tuấn V, Đặng Văn H, Đào Thị Thu S cho bị cáo cầm cố điện thoại lấy tiền tiêu xài, điện thoại đã được thu hồi trả lại cho bị hại, bị cáo nên buộc bị cáo có nghĩa vụ hoàn trả lại cho: Anh Nguyễn Tuấn V số tiền 2.000.000 đồng; anh Đặng Văn H số tiền 2.500.000 đồng; chị Đào Thị Thu S số tiền 2.5000.000 đồng.

- Chị Huỳnh Thị Bích N đem cầm cố 01 điện thoại di động của bị cáo cho anh Đặng Văn H lấy 2.500.000 đồng, điện thoại đã được thu hồi trả lại cho bị cáo, anh H yêu cầu chị N hoàn trả số tiền 2.500.000 đồng. Tại phiên tòa chị N đồng ý hoàn trả lại cho anh H số tiền trên. Xét thấy sự thõa thuận hoàn trả lại tiền giữa chị N và anh H không trái quy định của pháp luật nên chấp nhận.

[6] Xử lý vật chứng: Trong quá trình điều tra, đã thu giữ của bị cáo và chị Huỳnh Thị Bích N 08 điện thoại di động các loại (01 điện thoại Oppo A52; 01 điện thoại Oppo F1S; 01 điện thoại Samsung A31; 01 điện thoại Samsung A51; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu bạc; 01 điện thoại hiệu Iphone 4S màu trắng, dung lượng 8GB, bị vỡ kính mặt sau; 01 điện thoại hiệu Philips Xenium E168 màu đen; 01 điện thoại hiệu Nokia 1202 màu xanh dương), 02 xe mô tô đã qua sử dụng, một đồ dùng cá nhân của bị cáo và số tiền 560.000 đồng. Xét thấy, đối với điện thoại di động: Iphone 6 Plus, Iphone 4S, Nokia 1202, Samsung A31, Samsung A51 và số tiền 560.000 đồng là tài sản cá nhân của bị cáo nên trả lại cho bị cáo. Đối với điện thoại di động Philips Xenium E168 màu đen, 01 điện thoại Oppo A52 bị cáo nhặt được cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn đã thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng để tìm người mất tài sản nhưng đến nay không có ai khai nhận nên trả lại 02 điện thoại trên cho bị cáo. Đối với 02 xe mô tô: Trong đó xe mô tô 77N3-5237 cùng giấy đăng ký xe mô tô do bị cáo Đỗ Hữu L cầm cố từ người tên “Phúc bum” nên trả lại xe mô tô cho bị cáo, còn xe mô tô biển số 77F7 - 5055 do chị Huỳnh Thị Bích N mua lại của người khác không rõ nguồn gốc nên trả lại xe mô tô cho chị N quản lý. Đối với điện thoại Oppo F1S của chị N nên trả lại cho chị N. Ngoài ra, đồ dùng cá nhân của bị cáo đã cũ, bị cáo không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

(Đối với tài sản trả lại cho bị cáo và chị N nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án).

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án về tội: “Cướp giật tài sản” và có nghĩa vụ bồi thường, hoàn trả cho bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chị N có nghĩa vụ hoàn trả nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo luật định.

[8] Vấn đề khác: Ngoài ra, còn xác định Đỗ Hữu L còn giật 01 ví da bên trong có 01 điện thoại di động màu đen vào đầu tháng 4/2021 và giật 01 ví da bên trong có 01 điện thoại cảm ứng cùng số tiền 375.000 đồng vào ngày 10/4/2021 của người đi đường. Tuy nhiên, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được bị hại nên sẽ tiếp tục xác minh, làm rõ, vì vậy HĐXX không xem xét giải quyết.

Đối với chị Huỳnh Thị Bích N có hành vi giao xe mô tô 77F7-5055 cho Đỗ Hữu L nhưng không biết việc bị cáo L sử dụng vào việc phạm tội, chị N không biết việc L đem các điện thoại Iphone 7 Plus, Samsung Galaxy A5, Samsung Galaxy M20 về nhà cất giấu. Đối với anh Nguyễn Tuấn V nhận cầm cố điện thoại Iphone 7 Plus và điện thoại Samsung M20; anh Huỳnh Trung K chuộc lại điện thoại Iphone 7 Plus nhưng không biết rõ do bị cáo L phạm tội mà có. Do đó, chị Huỳnh Thị Bích N, anh Huỳnh Trung K, anh Nguyễn Tuấn V không phạm tội “Chứa chấp, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nên Cơ quan CSĐT Công an TP. Quy Nhơn không xử lý hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Hữu L phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

1. Áp dụng điểm điểm b, d, e, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đỗ Hữu L 07 (Bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2021.

2 Bồi thường thiệt hại: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 579, Điều 589, Điều 590 Bộ luật dân sự.

- Buộc bị cáo Đỗ Hữu L có nghĩa vụ bồi thường, hoàn trả cho:

+ Chị Trương Thị Thu H: 8.000.000 đồng (Tám triệu đồng).

+ Bà Hồ Thị X: 9.000.000 đồng (Chín triệu đồng) + Bà Phan Thị Thanh L: 32.246.467 đồng (Ba mươi hai triệu hai trăm bốn mươi sáu nghìn bốn trăm sáu mươi bảy nghìn đồng).

+ Anh Nguyễn Tuấn V: 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng).

+ Anh Đặng Văn H: 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

+ Chị Đào Thị Thu S: 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

- Buộc chị Huỳnh Thị Bích N có nghĩa vụ hoàn trả lại cho anh Đặng Văn H: 2.500.000 đồng (Hai triệu năm trăm nghìn đồng).

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được quyền yêu cầu bồi thường có đơn yêu cầu thi hành án mà người có nghĩa vụ phải thi hành không trả hoặc trả không đầy đủ thì còn phải chịu tiền lãi với mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự trên số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả.

3. Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Trả lại cho bị cáo:

- 01 (Một) điện thoại di động hiệu Oppo A52 màu xanh trắng, dung lượng 128 GB, số Imei 1: 860777051013656, số Imei 2: 860777051013649, không gắn thẻ sim, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Sam Sung A31 màu xanh đậm, ốp lưng da màu nâu, số Imei 1: 354565115169041, số Imei 2: 354566115169049, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung A51 màu xanh dương nhạt, ốp lưng bằng nhựa màu xám, số Imei 1: 352353112033748, số Imei 2:

352354112033746, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6 Plus màu bạc, dung lượng 16GB, số Imei: 355376073164233, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại hiệu Iphone 4S màu trắng, dung lượng 8GB, bị vỡ kính mặt sau, số Imei: 013151009958956, gắn sim số 0325211023, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại hiệu Philips Xenium E168 màu đen, số Imei 1:

865008031440537, số Imei 2: 865008031440545, đã qua sử dụng;

- 01 (một) điện thoại hiệu Nokia 1202 màu xanh dương, số Imei:

351550/06/971251/0, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) xe mô tô hiệu Yamaha loại C110 màu đen - đỏ, biển số 77N3 - 5237, số máy: 5C64 - 297145, số khung: RLCS5C640AY297146, đã qua sử dụng;

+ Số tiền 560.000 đồng (Năm trăm sáu mươi nghìn đồng).

- Trả lại cho chị Huỳnh Thị Bích N:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo F1S màu vàng, số Imei 1:

863897038966532, số Imei 2: 863897038966524, gắn thẻ sim số: 0974758337, đã qua sử dụng.

+ 01 (một) xe mô tô kiểu dáng Wave màu đen, gắn biển số 77F7 - 5055, hiệu máy Wayec, số khung: RMMWCH6MM71622626, số máy bị mài phá sâu, đã qua sử dụng;

(Đối với tài sản trả lại cho bị cáo và chị N nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án).

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 01 (một) mũ vải lưỡi trai màu đen, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) mũ vải lưỡi trai màu xám, có thêu 03 sọc màu trắng phía trước, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) quần sọt thun màu đen, có đường kẻ sọc màu trắng và cam dọc hai bên, có kí tự màu trắng “Sport” phía trước bên trái, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) áo thun màu trắng ngắn tay, phía trước bên trái có kí tự “Nike”, đã qua sử dụng;

+ 01 (một) áo thun có cổ màu đen, dọc hai tay áo có màu đỏ, dọc trên thân áo có sọc trắng, có kí tự “VTB” màu đỏ, đã qua sử dụng;

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 23/9/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn; Ủy nhiệm chi ngày 24/9/2021, cơ quan nhận tiền: Chi cục Thi hành án dân sự TP. Quy Nhơn).

4. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đỗ Hữu L phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

- Án phí dân sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Đỗ Hữu L phải chịu 2.812.000 đồng;

chị Huỳnh Thị Bích N phải chịu 300.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

365
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 156/2021/HS-ST

Số hiệu:156/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Qui Nhơn - Bình Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về