Bản án về tội cướp giật tài sản số 154/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM - THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 154/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 25/8/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 159/2022/HSST ngày 02/ 8/2022, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 166/QĐĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo:

Lù Văn M, sinh năm 1996. Hộ khẩu thường trú: Tổ 4, phường C, thành phố S, tỉnh S. Nơi ở: Số 5 ngõ 102/44/49 P, phường L, quận Đ, thành phố H; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lù Văn T, sinh năm 1975 và bà Lù Thị L, sinh năm 1977. Danh chỉ bản số 000000264 lập ngày 18/04/2022 tại Công an quận Nam Từ Liêm thành phố Hà Nội và lý lịch cá nhân bị cáo M không có tiền sự, tiền án.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 8/04/2022, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 Công an thành phố Hà Nội, có mặt.

Bị hại: Chị Nguyễn Thị Q, sinh năm 1990, HKTT: xã Đ, huyện T, tỉnh B; Trú tại số 32 ngõ 14 M, phường M, quận N, H, vắng mặt có lý do.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Anh Cao Thế L, sinh năm 1984, Trú tại: Số 944 đường L, phường L, quận Đ, thành phố H, có mặt.

Ông Lù Văn T, sinh năm 1975, HKTT và nơi ở: Tổ 4, phường C, thành phố S, tỉnh S, vắng mặt không lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lù Văn M là đối tượng không có công ăn việc làm ổn định, do thiếu tiền trả nợ và chi tiêu cá nhân nên M đã sinh ý định đi cướp giật hoặc trộm cắp tài sản để lấy tiền chi tiêu và trả nợ. Khoảng 19h30 ngày 05/04/2022, M đi lang thang tại khu vực ngõ 14 M, phường M, N, H thì phát hiện cửa hàng mua bán điện thoại di động của chị Nguyễn Thị Q (SN: 1990, HKTT: Đ, T, B) tại địa chỉ số 32 ngõ 14 M, phường M, M thấy chị Q đang mang thai, đi lại nặng nề và cửa hàng chỉ có một mình chị Q trông coi nên đã nảy sinh ý định cướp giật tài sản. M đi vào trong cửa hàng giả vờ hỏi mua điện thoại của chị Q để tìm sơ hở chiếm đoạt tài sản, chị Q đã đưa cho Mạnh xem 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu đen và báo giá là 11,5 triệu đồng nhưng do chưa có sự chuẩn bị trước nên M nói với chị Q: “Tài chính em không đủ, chắc phải cố mấy hôm nữa” và đưa trả điện thoại cho chị Q rồi đi về. Đến khoảng 11h25’ ngày 07/04/2022, do không còn tiền tiêu sài nên M điều khiển xe máy nhãn hiệu Honda Dream biển kiểm soát 26F5- 6976 quyết tâm quay lại cửa hàng của chị Q với ý định lợi dụng sở hở để cướp giật tài sản, đến nơi M để xe máy ở đầu ngách 14/32 M, M và đi vào trong cửa hàng (lúc này trong cửa hàng chỉ có một mình chị Q). M hỏi chị Q: “Chị ơi em quyết định sẽ lấy cái điện thoại Iphone 11 Promax hôm trước, 11,5 triệu đúng không chị” thì chị Q bảo M; “Chắc em nghe nhầm rồi cái điện thoại này giá 14 triệu cơ em ạ, cái 11,5 triệu là cái điện thoại này” và đưa cho M 01 điện thoại Iphone 11 màu đỏ. M mở nguồn điện thoại lên xem thì thấy điện thoại không có mật khẩu, kiểm tra máy thì thấy trong máy không có dữ liệu gì, M giả vờ đứng xem máy nhằm đợi chị Q sơ hở không để ý sẽ chiếm đoạt tài sản. M đứng xem khoảng 05 phút thì thấy chị Q đang bận tiếp khách, không để ý nên đã nhanh chóng cầm chiếc điện thoại Iphone 11 màu đỏ trên đi ra nhảy lên xe, nổ máy và điều khiển xe bỏ chạy vào ngách 14/32 M để tẩu thoát. Chị Q lúc này phát hiện M cầm chiếc điện thoại Iphone 11 màu đỏ nhảy lên xe máy tẩu thoát nên đã hô “Cướp, cướp” và đuổi theo M nhưng do đang mang thai nên không đuổi kịp. Sau khi chiếm đoạt được chiếc điện thoại, M đem đến cửa hàng cầm đồ tại số 944 đường L, phường L, Đ, H bán cho anh Cao Thế L (SN: 1984, HKTT: L, Đ, H) là chủ cửa hàng với giá 6.000.000 đồng. Số tiền bán điện thoại, M đã nạp vào ví điện tử MoMo số 0346520375 mang tên “Lù Văn M” số tiền 5.500.000 đồng, M chuyển 3.950.000 đồng vào tài khoản của anh Nguyễn Văn P (SN: 1992, Địa chỉ: số 15 ngõ 102/44/49 P, phường L, Đ, H) để trả nợ và chuyển 1.500.000 đồng vào tài khoản 1025617860 mở tại ngân hàng T (V) tên “LE VAN H để trả nợ. số tiền 500.000 đồng còn lại M chi tiêu cá nhân hết. Đến chiều ngày 07/04/2022, do hối hận về hành vi của mình và nhận thức được việc mình làm là vi phạm pháp luật nên M đã đến Công an phường M để đầu thú.

Cùng ngày, cơ quan điều tra dẫn giải Lù Văn M và xác định được bán điện thoại là cửa hàng của anh Cao Thế L, anh L tự nguyện đã giao nộp cho Cơ quan điều tra 01 điện thoại Iphone 11 màu đỏ.

Tại cơ quan điều tra, Lù Văn M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.

Vật chứng thu giữ: 01 xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 26F5-6976; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 3 màu xanh đỏ (thu giữ của Lù Văn M); 01 điện thoại Iphone 11 màu đỏ, không lắp sim (thu giữ của anh Cao Thế L);

3.950.000 đồng (thu giữ của Nguyễn Văn P).

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 138 ngày 15 tháng 04 năm 2022 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự quận Nam Từ Liêm, kết luận: 01 điện thoại Iphone 11 màu đỏ,128 GB, đã qua sử dụng trị giá 11.000.000 đồng.

Đối với số tiền 1.500.000 đồng Lù Văn M chuyển vào tài khoản mang tên “LE VAN H” tại V để trả nợ. Cơ quan điều tra xác minh anh H chưa bao giờ mở tài khoản tại ngân hàng V và không sử dụng số điện thoại 0352594520. Do anh Lê Văn H không biết và không sử dụng tài khoản trên nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và xử lý.

Bản cáo trạng số 140/CT-VKS ngày 01/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm đó truy tố bị cáo Lù Văn M về tội cướp giật tài sản theo quy định tại điểm g khoản 2 điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Lù Văn M khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Bị cáo xác định biết chị Q đang mang thai, sẽ khó đuổi bắt bị cáo nên bị cáo mới quyết tâm thực hiện hành vi phạm tội của mình. Đối với số tiền 1.500.000 đồng M chuyển vào tài khoản mang tên “LE VAN H” tại V để trả nợ là do M trước đó M vay tiền trên app cho vay, M không biết chủ tài khoản là ai, ở đâu. Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 26F5-6976 M khai mượn của ông Lù Văn T là bố đẻ nên đề nghị Tòa trả lại xe cho ông Lù Văn T.

Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm trong phần luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố như Cáo trạng số 140/CT-VKS ngày 01/8/2022 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Điều 38, Điều 47, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lù Văn M từ 42 đến 48 tháng tự. Không áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với bị cáo. Buộc Lù Văn M nộp truy thu sung quỹ Nhà Nước số tiền 2.050.000 đồng; Trách nhiệm bồi thường dân sự bị hại không có yêu cầu nên không xem xét. Trả cho ông Lù Văn T chiếc xe mỏy nhón hiệu Honda Dream BKS: 26F5-6976; Trả cho anh Cao Thế L số tiền 3.950.000 đồng. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhón hiệu Realme 3 màu xanh đỏ.

Lời nói sau cùng bị cáo M đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Lù Văn M khai phù hợp với lời khai của bị hại, người liên quan, các biên bản tạm giữ đồ vật tài liệu, biên bản và sơ đồ dẫn giải, sơ đồ hiện trường, các biên bản và bản ảnh nhận dạng, bản ảnh vật chứng, phù hợp với bản Kết luận định giá tài sản số 138 ngày 15/04/2022 của Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Ủy ban nhân dân quận Nam Từ Liêm và phù hợp với các biên bản, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án mà Cơ quan điều tra đã thu thập được.

[3] Những chứng cứ trên đây đã có đủ cơ sở xác định:

Khoảng 11h25 ngày 7/4/2022, tại cửa hàng điện thoại số 32 ngõ 14 M, phường M, N, H, Lù Văn M đã có hành vi cướp giật chiếc điện thoại Iphone 11 màu đỏ, trị giá 11.000.000 đồng của chị Nguyễn Thị Q (M biết rõ chị Nguyễn Thị Q đang mang thai). Hành vi của bị cáo Lù Văn M đã phạm vào tội “cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, xâm phạm đến trật tự an tòan xã hội. Để có tiền ăn tiêu bị cáo M đã đến cửa hàng điện thoại của chị Q, biết chị Q là phụ nữ đang mang thai sẽ khó bắt giữ khi M cướp giật tại sản, bằng thủ đoạn trả vờ mua điện thoại, khi chị Q đưa điện thoại cho M xem, M đã công khai và nhanh chóng lấy điện thoại của chị Q bỏ chạy. Hành vi của bị cáo thể hiện rõ sự liều lĩnh coi thường pháp luật nên cần phải xử lý nghiêm, cách ly ra khỏi xã hội một thời gian để giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

[5] Khi lượng hình phạt xét nhân thân bị cáo M chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu. Sau khi phạm tội đã ra đầu thú, khai nhận tội, tài sản đã thu hồi trả cho bị hại, bị cáo là người dân tộc thiểu số, có ông ngoại được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhất để cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, kinh tế khó khăn nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung phạt tiền đối với các bị cáo.

[7] Trách nhiệm dân sự trong vụ án, bị hại chị Nguyễn Thị Q đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bị cáo bồi thường dân sự nên không đặt ra xem xét.

[8] Biện pháp tư pháp:

Số tiền 6.000.000 đồng bị cáo M được anh L trả khi mua điện thoại, M trả nợ anh Nguyễn Văn P 3.950.000 đồng, anh P đã nộp cho Cơ quan điều tra, Tại phiên tòa anh Cao Thế L chỉ yêu cầu bị cáo M trả lại số tiền 3.950.000 đồng, số tiền còn thiếu 2.050.000 đồng anh L không yêu cầu M phải trả nốt. Do vậy chấp nhận sự tự nguyện của anh L, trả cho anh L số tiền 3.950.000 đồng (tiền vật chứng Cơ quan điều tra đã thu hồi được.

Đối với số tiền còn lại từ việc bán điện thoại là 2.050.000 đồng bao gồm số tiền 1.500.000 đồng M xác định trả nợ nhưng không có căn cứ thu hồi và số tiền còn lại M đã chi tiêu cá nhân hết. Đây là tiền do phạm tội mà có nên cần buộc M nộp truy thu sung quỹ Nhà Nước.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 26F5-6976 thu giữ của M, quá trình điều tra xác định thuộc quyền sở hữu của ông Lù Văn T, ông T cho M mượn xe không biết M sử dụng xe đi cướp giật tài sản nên cần trả lại chiếc xe này cho ông T. 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 3 màu xanh đỏ thu giữ của M phương tiện M dùng chuyển tiền liên quan đến hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

Việc xử lý các vật chứng trên theo quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

[9] Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Điểm g, khoản 2 Điều 171, Điều 38, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự. Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, Điều 337 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lù Văn M phạm tội Cướp giật tài sản.

Xử phạt Lù Văn M 42 (bốn mươi hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 8/04/2022.

Buộc bị cáo Lù Văn M phải nộp truy thu số tiền 2.050.000 (hai triệu không trăm năm mươi nghìn) đồng sung quỹ Nhà Nước.

Vật chứng:

Trả cho anh Cao Thế L (sinh năm 1984, Trú tại: Số 944 đường L, phường L, quận Đ, thành phố H) số tiền 3.950.000 (ba triệu chín trăm năm mươi nghìn) đồng; Trả cho ông Lù Văn T (sinh năm 1975, HKTT và nơi ở: Tổ 4, phường C, thành phố S, tỉnh S) một chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Dream BKS: 26F5-6976.

Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Realme 3 màu xanh đỏ.

Các vật chứng trên hiện Chi cục Thi hành án dân sự quận Nam Từ Liêm đang quản lý theo Ủy nhiệm chi chuyển tiền số 147 ngày 03/8/2022 và biên bản bàn giao vật chứng số 203 ngày 7/8/2022.

Bị cáo Lù Văn M phải nộp 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Bị cáo Lù Văn M và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Cao Thế L có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại Nguyễn Thị Q, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lù Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

10
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 154/2022/HS-ST

Số hiệu:154/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về