Bản án về tội cướp giật tài sản số 153/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TG, TỈNH ĐB

BẢN ÁN 153/2023/HS-ST NGÀY 22/09/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 22/9/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tuần G tỉnh Điện B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 150/2023/TLST-HS ngày 30/8/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 152/2023/QĐXXST-HS ngày 08/9/2023 của Tòa án nhân dân huyện Tuần G đối với bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn L tên gọi khác: Không; giới tính Nam, sinh năm 1985 tại huyện Tuần G, tỉnh Điện B; nơi cư trú: Bản Đ, xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B; Nghề nghiệp: Nông nghiệp; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Thái; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn N, sinh năm 1939; con bà Lò Thị D, sinh năm 1942; bị cáo chung sống như vợ chồng với Lò Thị Th, sinh năm 1986 và có 02 người con, con lớn sinh năm 2009, con nhỏ sinh năm 2011; tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân: Chưa bị xét xử, chưa bị xử phạt vi phạm hành chính; bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giữ tạm giam từ ngày 19/5/2023 đến ngày xét xử, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Bị hại: Công ty Cổ phần bán lẻ kỹ thuật số FPT.

Địa chỉ: 261, 262 Khánh H, phường 5, Quận 4, Thành phố Hồ Chí M.

Đại diện theo pháp luật cho bị hại: Ông Hoàng Trung K, chức vụ Tổng Giám đốc Dại diện theo ủy quyền: Chị Lường Thị Th, sinh năm 1999 Trú tại: Bản Ph, xã Quài C, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do bản thân không có điện thoại sử dụng nên khoảng 12 giờ 00 phút, ngày 19/5/2023. Lò Văn L đã một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu YAMAI- TAX, biển kiểm soát 27B1-114.xx của L từ nhà ở bản Đ, xã Quài T, huyện Tuần G, tỉnh Điện B đến thị trấn Tuần G, huyện Tuần G để tìm sơ hở nhằm chiếm đoạt tài sản của người dân. Khoảng 12 giờ 20 phút cùng ngày, L đi đến khu vực ngã ba - Trung tâm thị trấn Tuần G, thuộc khối Tân Th, thị trấn Tuần G, huyện Tuần G, tỉnh Điện B, L thấy trong cửa hàng bán điện thoại di động FPT Shop thuộc Công ty Cổ phần bán lẻ kỹ thuật số FPT do ông Hoàng Trung K làm Tổng giám đốc có địa chỉ tại: 261- 262 Khánh H, Phường 05, Quận 4, Thành Phố Hồ Chí M. chỉ có một mình chị Lường Thị T là nhân viên hợp đồng bán hàng đang ở trong cửa hàng, quan sát xung quanh thấy vắng người qua lại. L đã vào cửa hàng để cướp giật điện thoại. L dựng xe cách cửa ra vào của cửa hàng khoảng 20 mét, đầu xe quay về hướng xã Quài T, huyện Tuần G, xe vẫn nổ máy và để số nhằm sau khi cướp giật được điện thoại l sẽ nhanh chóng lên xe tẩu thoát. Sau đó Lâm đi bộ vào trong cửa hàng FPT Shop, lúc này L vẫn đội mũ bảo hiểm màu ghi xám và đeo khẩu trang y tế màu xanh để nhân viên bán hàng không nhận ra mặt, khi vào trong cửa hàng chị Th đang trông cửa hàng ra tiếp thị và giới thiệu điện thoại cho L, chị Th hỏi: “Anh muốn mua điện thoại gì, bao nhiêu tiền ạ”, L bảo:“ Tôi muốn mua chiếc điện thoại khoảng 2.000.000 đồng”, L nhìn thấy một chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax, màu tím đang được bày bán tại dàn bàn thứ 2, hướng từ trái sang phải. L bảo: “Lấy con này, lấy máy mới”. L nghĩ sẽ cướp giật lấy chiếc điện thoại này, lúc này do chị Th chỉ đứng cách L khoảng 1 mét, nên L giả vờ bảo chị Th đi vào trong lấy cho L một chiếc điện thoại mới, khi chị thủy quay vào được khoảng ba bước, cách vị trí L đứng khoảng 2 mét. L đã dùng tay phải cầm chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax, màu tím, tay trái giật mạnh dây nối máy với hệ thống báo động, đồng thời bỏ chạy thì ngay lúc đó hệ thống báo động kêu, L đã nhanh chóng bỏ chạy ra ngoài cửa hàng, lên xe mô tô mà L dựng sẵn ở lề đường trước đó, định tăng ga bỏ chạy, thì chị Th đã kịp thời đuổi theo và giữ phần sau xe của L lại, đồng thời hô to: “Cướp, cướp, cướp điện thoại”, làm chiếc xe của L bị đổ xuống đường. L đã bỏ xe mô tô lại và chạy bộ về hướng đi xã Quài T, huyện Tuần G khoảng 300 mét thì bị tổ công tác của Công an huyện Tuần G bắt giữ, Phát hiện thu giữ tại tay trái của L đang cầm 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax, màu tím, chưa qua sử dụng. L khai nhận đó là chiếc điện thoại L vừa cướp giật được. Tổ công tác đã mời người chứng kiến và chính quyền địa phương tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ vật chứng đối với L.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 10/KL-HĐĐGTS ngày 20/5/2023 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: Chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphione 14 promax kích thước 16,07cm x 7,75 cm x 0,79 cm màu tím, bản 128 gb, chưa qua sử dụng có giá là 27.610.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo cũng thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản Cáo trạng đã truy tố: Vì muốn có điện thoại để sử dụng, bị cáo đã thực hiện hành vi cướp giật tài sản của Công ty cổ phần bán lẻ kỹ thuật số T. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật đã thành khẩn thật thà khai báo Lời khai của chị Lường Thị Th là đại diện theo ủy quyền của bị hại: Chị Th giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, ngày 19/5/2023 bị cáo đã thực hiện hành vi cướp giật chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphione 14 promax tại cửa hàng , Sop 48, khối Tân Th, thị trấn Tuần G, huyện Tuần G, chị xin được trả lại cho Công ty. Về trách nhiệm hình sự chị đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại bản Cáo trạng số: 137/CT-VKS -TG ngày 30/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội: "Cướp giật tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần Giáo giữ quyền công tố luận tội bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự; Điều 38; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn Lâm từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội: “Cướp giật tài sản”.

Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo theo khoản 5 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị chấp nhận việc đại diện cho bị hại yêu cầu được trả lại chiếc điện thoại, không yêu cầu bồi thường thêm gì khác.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax màu tím chưa qua sử dụng cho Công ty Cổ phần bán lẻ kỹ thuật số T, đại diện theo ủy quyền là chị Lường Thị Th. Tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc xe mô tô, nhãn hiệu YAMAI-TAX, biển kiểm soát 27 B1-114.xx màu sơn đen, bạc. Tịch thu tiêu hủy một chiếc mũ bảo hiểm màu ghi xám đã qua sử dụng, một chiếc khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo thuộc diện được miễn án phí, đề nghị HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không bào chữa cho hành vi của mình, nhất trí với nội dung bản Cáo trạng, không có quan điểm tranh luận cho bị cáo.

Lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét hành vi của bị cáo bị truy tố: Hồi 12 giờ 15 phút, ngày 19/5/2023 tại khu vực ngã ba thị trấn Tuần G thuộc Khối Tân Th, thị trấn Tuần G, huyện Tuần G, tỉnh Điện B. Lò Văn L đã thực hiện hành vi Cướp giật tài sản là 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax, màu tím có giá trị 27.610.000 đồng, tại cửa hàng bán điện thoại di động T của Công ty cổ phần bán lẻ kỹ thuật số T, nhằm mục đích để sử dụng.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (BL 01 - 02); Biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường (BL 72- 93); Kết luận giám định video và bản ảnh (BL 56 - 67); kết luận định giá tài sản (BL 54); Biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung bị cáo cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở khẳng định hành vi của bị cáo đã đầy đủ yếu tố cấu thành tội: “Cướp giật tài sản" quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật hình sự. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn xã hội tại địa phương.

Từ những phân tích trên, HĐXX khẳng định, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, có căn cứ pháp luật. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực để chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi phạm tội của mình.

[2]. Xét tính chất, mức độ hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo cho thấy: Bị cáo đã cướp giật tài sản chiếc di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax, màu tím của Công ty cổ phần bán lẻ kỹ thuật số T có giá trị 27.610.000 đồng nên hành vi của bị cáo thuộc khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự với mức hình phạt từ 01 năm tù đến 05 năm tù. Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng.

[3]. Xét về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo Lò Văn L sinh ra và lớn lên tại huyện Tuần Giáo, tỉnh Điện Biên. Bị cáo không có tiền án, tiền sự không có tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, HĐXX xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có bố đẻ là Lò Văn N được nhà nước tặng thưởng huy chương kháng chiến hạng nhất, HĐXX áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

HĐXX xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân bị cáo để áp dụng mức hình phạt phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nhưng nhất thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo có thời gian học tập cải tạo trong môi trường cưỡng chế của nhà nước, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên cần được chấp nhận.

4] Về trách nhiệm dân sự đối với bị cáo: Đại diện cho bị hại chỉ yêu cầu trả lại chiếc điện thoại đã bị cướp giật, không yêu cầu bồi thường thêm gì khác, xét đây là sự tự nguyện, đúng quy định của pháp luật, HĐXX căn cứ các Điều 584, Điều 585, 589 Bộ luật Dân sự chấp nhận ý kiến của đại diện cho bị hại.

[5]. Về xử lý vật chứng: Vật chứng đã thu giữ là chiếc điện thoại di động nhãn hiệu điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax bị cáo cướp giật trái phép, hiện đang tạm giữ, HĐXX căn cứ khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cần trả lại cho bị hại. Chiếc xe mô tô, nhãn hiệu YAMAI-TAX, biển kiểm soát 27 B1-114.xx màu sơn đen – bạc, đây là phương tiện của bị cáo dùng vào việc phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định đây là xe của bị cáo mua lại của chị Lường Thị H trú tại đội 14, xã Thanh H, huyện Điện B, có giấy viết tay mua bán vào ngày 17/12/2022, giấy đăng ký xe mang tên Lường Thị H. Quá trình điều tra, xác minh số máy đúng theo như đăng ký nhưng số khung có dấu hiệu không nguyên bản song bị cáo sau khi mua đã sử dụng không có ai tranh chấp. Xét đây là phương tiện phạm tội, HĐXX căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự, điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, cần tịch thu sung quỹ nhà nước.

Một chiếc mũ bảo hiểm màu ghi xám đã qua sử dụng, một chiếc khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng, xét đây là vật chứng không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6]. Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính là phạt tù bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Song xét thấy hoàn cảnh gia đình bị cáo chỉ làm nông nghiệp, thuộc diện hộ nghèo nên không có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[7]. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống tại địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, là hộ nghèo, thuộc diện được miễn án phí, có đơn xin miễn án phí, HĐXX miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tuần G, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tuần G, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ Luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, bị hại, đại diện cho bị hại, không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự; Điều 38; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự;

Căn cứ Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

1. Về tội danh: Bị cáo Lò Văn L phạm tội: “Cướp giật tài sản”.

2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn L: 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 19/5/2023.

3. Trách nhiệm dân sự: Căn cứ Điều 584, 585, 589 Bộ luật Dân sự: Chấp nhận việc đại diện cho bị hại chị Lường Thị Th không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm gì khác.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a, c khoản 2, điểm b khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Trả lại chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Apple, loại Iphone 14 Promax màu tím chưa qua sử dụng cho Công ty Cổ phần bán lẻ kỹ thuật số T, đại diện theo ủy quyền là chị Lường Thị Th. Tịch thu sung ngân sách nhà nước chiếc xe mô tô, nhãn hiệu YAMAI-TAX, biển kiểm soát 27 B1-114.xx màu sơn đen, bạc. Tịch thu tiêu hủy một chiếc mũ bảo hiểm màu ghi xám đã qua sử dụng, một chiếc khẩu trang y tế màu xanh đã qua sử dụng (Theo biên bản giao nhận vật chứng đã cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tuần G bàn giao cho Chi Cục thi hành án huyện Tuần G, tỉnh Điện B vào hồi 15 giờ 30 phút ngày 31/8/2023)

5. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

6. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, ngày 22/9/2023; bị hại được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết; đại diện theo ủy quyền của bị hại được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 22/9/2023./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 153/2023/HS-ST

Số hiệu:153/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuần Giáo - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về