TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH
BẢN ÁN 132/2022/HS-PT NGÀY 17/09/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 116/2022/HSPT ngày 30 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Trần Quốc T do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HS-ST ngày 19/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.
- Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Trần Quốc T; tên gọi khác: Không; ngày, tháng, năm sinh: 01/8/1978, tại thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; Nơi cư trú: Tổ dân phố 6, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Đình Th, sinh năm: 1933 (đã chết) và bà Nguyễn Thị Kim Th1, sinh năm: 1941; có vợ: Hoàng Thị L, sinh năm: 1980 (Đã ly hôn) và 02 người con; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 19/4/2022 đến hết ngày 02/6/2022 tại Nhà Tạm giữ Công an huyện T và Trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh. Từ ngày 03/6/2022 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh, áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm hoãn xuất cảnh. (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).
Vụ án còn có người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, nhưng không kháng cáo, không bị kháng nghị nên Tòa án không triệu tập tham gia phiên tòa phúc thẩm.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 17/4/2022, chị Nguyễn Thị Diệu A điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu đồng, biển kiểm soát 38D1-048.58, phía sau chở mẹ là bà Nguyễn Thị H đi đến cây ATM của ngân hàng Vietcombank ở tổ dân phố 7, thị trấn Đ, huyện T để rút số tiền 4.000.000 đồng. Khi rút được tiền, bà Nguyễn Thị H cất số tiền nói trên trong chiếc ví da màu xám - vàng, bên trong ví có 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 105, màu đen, rồi để chiếc ví vào túi nilon màu đỏ, cầm ở tay. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, chị Nguyễn Thị Diệu A điều khiển xe mô tô nói trên chở bà Nguyễn Thị H đi trên đường Y - thị trấn Đ theo hướng từ ngân hàng Vietcombank đến chợ H, thị trấn Đ. Khi đi đến địa phận tổ dân phố 5, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh (trước cổng Ngân hàng Agribank chi nhánh huyện T), thì Trần Quốc T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha, sơn màu xanh-đen-bạc, không có biển kiểm soát áp sát phía sau, đi song song với xe mô tô do chị Nguyễn Thị Diệu A điều khiển, rồi dùng tay phải giật mạnh chiếc túi nilon trên tay bà Nguyễn Thị H, nhưng do bà Nguyễn Thị H giữ chặt, nên Trần Quốc T không chiếm đoạt được. Lúc này, Trần Quốc T điều khiển xe mô tô vượt lên trước, chặn đầu xe mô tô mà chị Nguyễn Thị Diệu A điều khiển để lấy chìa khóa xe mô tô của chị A, thì chị Nguyễn Thị Diệu A rút chìa khóa và dắt xe mô tô đi sang cửa hàng điện máy xanh, còn Trần Quốc T điều khiển xe mô tô của mình đi về nhà. Đến sáng ngày 18/4/2022, Công an huyện T triệu tập Trần Quốc T đến trụ sở làm việc, Trần Quốc T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Với hành vi phạm tội trên, tại bản án số: 32/2022/HS-ST ngày 19/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 57 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Quốc T 42 (Bốn mươi hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án. Bị cáo được trừ 45 ngày (từ ngày 19/4/2022 đến ngày 02/6/2022) đã bị tạm giam vào thời gian chấp hành án.
Án sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí; tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Trong hạn luật định, ngày 01/8/2022 bị cáo Trần Quốc T có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, bị cáo khai và thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của bản án sơ thẩm.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố xét xử phúc thẩm vụ án sau khi phân tích hành vi, nhân thân, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, sửa bản án sơ thẩm, giảm cho bị cáo 12 tháng tù và tuyên phạt bị cáo 30 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” .
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng cáo của bị cáo hợp lệ nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Qúa trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[3] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở khẳng định: Vào khoảng 17 giờ ngày 17/4/2022, tại tổ dân phố 5, thị trấn Đ, huyện T, tỉnh Hà Tĩnh, Trần Quốc T đã có hành vi điều khiển xe mô tô Wave Alpha màu Xanh Đen Bạc của mình, cướp giật một chiếc túi nilon màu đỏ, bên trong có một chiếc điện thoại di động Nokia 105, màu đen trị giá 300.000 đồng; 01 chiếc ví da màu vàng - xám trị giá 150.000 đồng và số tiền 4.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị H đang ngồi phía sau xe mô tô nhãn hiệu Wave RSX, sơn màu đồng, biển kiểm soát 38D1- 048.58 do chị Nguyễn Thị Diệu A điều khiển. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 4.450.000 đồng. Bị cáo đủ tuổi và đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp và bằng thủ đoạn nguy hiểm. Do đó, hành vi của bị cáo Trần Quốc T đã phạm tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Theo đó Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HS-ST ngày 19/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh quyết định tuyên bố bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Cướp giật tài sản” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Vì vậy, việc tòa án cấp sơ thẩm xử phạt tù đối với bị cáo là hoàn toàn chính xác và nghiêm minh.
[4] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nội dung kháng cáo của bị cáo thấy rằng: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử bị cáo về tội danh theo điểm, khoản điều luật nói trên là đúng pháp luật không oan, sai. Bị cáo không yêu cầu Hội đồng xét xử phúc thẩm làm rõ thêm bất kỳ tình tiết, nội dung nào của vụ án mà chỉ tha thiết đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xem xét, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được cải tạo trở về lao động chăm sóc gia đình với lý do bị cáo đã nhận thức rõ sai phạm, thành khẩn khai báo, ăn năn hối hận, hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo nhất thời phạm tội, chưa xâm hại đến tài sản của người bị hại, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Hội đồng xét xử phúc thẩm, xét thấy: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã hoàn toàn thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội, thể hiện thái độ thành khẩn, ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Quá trình thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa cướp giật được tài sản nên thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt; Người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn bố mất sớm, mẹ đã già yếu, bị cáo là lao động chính trong gia đình hiện đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ già và hai con đang tuổi đi học (có đơn trình bày hoàn cảnh ngày 12/9/2022 được chính quyền địa phương xác nhận). Bị cáo có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội, đã tự nguyện nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm. Vì vậy, để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy cần chấp nhận đơn kháng cáo và xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo có điều kiện cải tạo, sớm được ra tù, giúp đỡ gia đình trở thành người có ích cho gia đình và xã hội như đề nghị của đại diện viện kiểm sát tại phiên tòa là phù hợp và đủ nghiêm.
[5] Về án phí: Bị cáo kháng cáo được chấp nhận nên không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo sửa bản án hình sự sơ thẩm số 32/2022/HSST ngày 19/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Hà Tĩnh.
[2] Tuyên bố: Bị cáo Trần Quốc T phạm tội “Cướp giật tài sản”.
Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 57 Bộ luật hình sự:
Xử phạt bị cáo Trần Quốc T 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án. Bị cáo được trừ 45 ngày (từ ngày 19/4/2022 đến ngày 02/6/2022) đã bị tạm giam vào thời gian chấp hành án.
[3] Về án phí phúc thẩm: Căn cứ các Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 bị cáo Trần Quốc T không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Về án phí sơ thẩm: Bị cáo đã nộp 200.000đ theo biên lai thu tiền số 0008326 ngày 16/9/2022 tại Chi cục thi hành sán dân sự huyện T.
[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị, có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.
[5] Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 132/2022/HS-PT
Số hiệu: | 132/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Tĩnh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về