TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 5, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 12/2023/HS-ST NGÀY 22/02/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Hôm nay, ngày 22 tháng 02 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2023/HSST ngày 13/01/2023, Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 06/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Trần Tuấn K, sinh ngày 11 tháng 01 năm 1999 tại: Thành phố Hồ Chí Minh; Giới tính: Nam; Thường trú: 2 T, Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: Không nơi ở nhất định; Nghề nghiệp: Không; Học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Trần Tuấn D và bà: Nguyễn Thị Tuyết N; Chưa có vợ con; Tiền án: Ngày 07 tháng 12 năm 2018 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, tiền sự: Không.
Nhân thân: Ngày 11/3/2016 bị Tòa án nhân dân Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/5/2022 (có mặt tại phiên tòa). Bị hại: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: D B, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Bà Nguyễn Thị Bảo T, sinh năm 1984 (vắng mặt) Địa chỉ: 1 H, phường T, Quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Trần Tuấn K có quan hệ quen biết với nam thanh niên tên S (không rõ lai lịch). Khoảng 14 giờ ngày 08/5/2022, K điều khiển xe mô tô hiệu Honda Vario màu đen đỏ gắn biển số: 59C2-857.xx đến đường P, Quận H chở S đi uống cà phê. Đến khoảng 15 giờ 10 phút cùng ngày, K điều khiển xe chở S chạy đến trước quán C - số A T, Phường B, Quận E thì S phát hiện chị Nguyễn Thị H đang đứng đối diện trước quán cà phê, trên tay chị H cầm 01 cái túi xách màu đen. Lúc này, S nói K chạy áp sát chị H để S cướp giật túi xách của chị H thì K đồng ý. Thực hiện ý định, K điều khiển xe chạy qua chỗ chị H, rồi quay đầu xe lại, chạy áp sát để S ngồi sau dùng tay giật túi xách của chị H đang đề trên yên sau của xe máy rồi cả hai nhanh chóng tăng ga tẩu thoát. Cả hai đi đến đường V (khu vực phía dưới chân cầu N, Quận E), S nói K dừng xe lại để mở túi xách kiểm tra tài sản bên trong có: 1.250.000 đồng, 04 thẻ ATM, 01 giấy phép lái xe. S lấy tiền chia lại 80.000 đồng và đưa túi xách có chứa 04 thẻ ATM, 01 giấy phép lái xe cho K giữ, rồi S bỏ đi đâu không rõ. Sau đó, K điều khiển xe lên cầu N, mở túi xách lấy 04 thẻ ATM bỏ vào ví để trong cốp xe, K ném túi xách và giấy phép lái xe của chị H xuống kênh T rồi điều khiển xe về nhà. Khoảng 19h cùng ngày, K chạy xe đến hẻm E V, phường C, Quận A tháo gỡ biển số xe 59C2-857.xx ra và lấy biển số xe 63C1-208.xx (là biển số thật của xe V) gắn vào lại, còn biển số xe 59C2-857.xx thì K ném vào bao rác.
Bị chiếm đoạt tài sản, chị H đến Công an P, Quận E trình báo. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q đề điều tra làm rõ. Qua truy xét, Công an Q thu giữ số vật chứng còn lại, đưa K trụ sở làm việc. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q, Trần Tuấn K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên.
Đối với “San” là đối tượng cùng với Trần Tuấn K thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản”, quá trình điều tra chưa xác định được lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q tiếp tục truy bắt, khi nào bắt được xử lý sau.
Vật chứng: 01 thẻ ATM Ngân hàng V1 màu xám, số thẻ 97043208866507xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 thẻ ATM Ngân hàng T1 màu xám , số thẻ 46658228607776xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 thẻ ATM Ngân hàng T1 màu tím , số thẻ 97042313240852xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 thẻ ATM Ngân hàng VIB màu xanh dương, số thẻ 51389200009390xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 xe mô tô hiệu Honda Vario màu đen đỏ, biển số: 63C1- 208.xx, xe có số khung, số máy không đổi; 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAS; 01 điện thoại di động hiệu Oppo; 01 biển số xe 59C2-857.xx.
Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại là chị Nguyễn Thị H yêu cầu được bồi thường số tiền 1.250.000 đồng.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là chị Nguyễn Thị Bảo T trước đây có yêu cầu được nhận lại biển số xe 01 biển số xe 59C2-857.xx đề sử dụng nhưng trước khi mở phiên tòa đã có đơn không yêu cầu nhận lại biển số xe 59C2-857.xx.
Bản cáo trạng số: 09/CT-VKS-Q5 ngày 13/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Trần Tuấn K về tội: “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 5 giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Bị cáo Trần Tuấn K và đối tượng tên S (không rõ lai lịch) sử dụng xe mô tô hiệu Honda Vario màu đen đỏ gắn biển số: 59C2-857.xx để thực hiện hành vi công khai, nhanh chóng giật 01 túi xách bên trong có 04 thẻ ATM và số tiền 1.250.000 đồng của chị Nguyễn Thị H rồi nhanh chóng tẩu thoát. Do đó, Viện kiềm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trần Tuấn K về tội “Cướp giật tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, i Khoản 2 Điều 171; điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Trần Tuấn K với mức án từ 05 (năm) năm đến 06 (sáu) năm tù; Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.
Bị cáo Trần Tuấn K không có ý kiến tranh luận, bào chữa và nói lời nói sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa công khai, bị cáo Trần Tuấn Kđã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai của bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người bị hại, vật chứng thu giữ và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Tuấn K và đối tượng tên S (không rõ lai lịch) sử dụng xe mô tô hiệu Honda Vario màu đen đỏ gắn biển số: 59C2-857.xx để thực hiện hành vi công khai, nhanh chóng giật 01 túi xách bên trong có 04 thẻ ATM và số tiền 1.250.000 đồng của chị Nguyễn Thị H rồi nhanh chóng tẩu thoát nhưng sau đó bị bắt. Bị cáo sử dụng xe mô tô làm phương tiện cướp giật tài sản gây nguy hiểm cho người đi đường nên thuộc trường hợp “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Ngoài ra, bị cáo đã phạm tội rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên lần phạm tội này thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Như vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm d, i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xét bị cáo là người có năng lực hành vi, đủ khả năng nhận thức được việc làm của mình, nhưng vì tham lam muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà bị cáo bất chấp pháp luật, cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến tài sản hợp pháp của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa phương nên cần có một mức án nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo nhằm mục đích giáo dục bị cáo, đồng thời có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[5] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo: Căn cứ Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải buộc bị cáo chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định đủ tác dụng giáo dục, đề bị cáo có thể cải tạo thành người có ích cho xã hội, đồng thời đủ sức răn đe đối với những người khác có hành vi tương tự.
[6] Về hình phạt bổ sung: Không xem xét áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.
[7] Viện kiểm sát nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố để xét xử và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo là có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan sai.
Đối với nam thanh niên tên S (không rõ lai lịch) đã cùng bị cáo Trần Tuấn K thực hiện hành vi “Cướp giật tài sản” hiện chưa bắt được, khi nào bắt được xử lý sau.
[8] Về xử lý vật chứng:
01 thẻ ATM Ngân hàng V1 màu xám, số thẻ 97043208866507xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 thẻ ATM Ngân hàng T1 màu xám , số thẻ 46658228607776xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 thẻ ATM Ngân hàng T1 màu tím , số thẻ 97042313240852xx mang tên Nguyen Thi H1; 01 thẻ ATM Ngân hàng VIB màu xanh dương, số thẻ 51389200009390xx mang tên Nguyen Thi H1 là tài sản cá nhân của chị H nên cần trả lại cho chị H.
01 xe mô tô hiệu Honda Vario màu đen đỏ, biển số: 63C 1-208.xx, xe có số khung, số máy không đổi. Qua xác minh, xe trên do anh Đinh Trường D1 đứng tên đăng ký, hiện anh D1 không có ở địa phương. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã đăng báo thông tin truy tìm nhưng chưa có kết quả. Xét chiếc xe trên bị cáo có được không rồ nguồn gốc, hiện chưa xác định được chủ sở hữu. Do đó, cần giao cho Cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu trong thời hạn 03 (ba) tháng. Nếu hết thời hạn trên không ai đến nhận thì tịch thu sung ngân sách Nhà nước.
01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAS và 01 điện thoại di động hiệu Oppo là tài sản cá nhân của bị cáo, không dùng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo.
01 biển số xe 59C2-857.xx, qua giám định là biển số thật, do chị Nguyễn Thị Bảo T đứng tên đăng ký. Theo chị T khai xe trên đã bị mất trộm và được Công an Q1 tạm giữ, sau đó đã trả lại cho chị T nhưng không có biển số, chị T không yêu cầu nhận lại biển số trên. Xét biển số trên là biển số được cơ quan có thẩm quyền cấp cho chị Nguyễn Thị Bảo T đề sử dụng cùng với xe gắn máy và bị mất. Hiện chị T không yêu cầu nhận lại nên cần tịch thu tiêu hủy.
Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Tuấn K đồng ý bồi thường theo yêu cầu của bị hại với số tiền là 1.250.000đ. Xét đây là sự tự nguyện thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại, phù hợp với quy định của pháp luật nên hội đồng xét xử ghi nhận.
[09] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm d, i Khoản 2 Điều 171; Điều 38; Điều 50; điểm s khoản 1 Điều 51; Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Trần Tuấn K 06 (sáu) năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 09/5/2022 Căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 2015 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 357; Khoản 1 Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Buộc bị cáo Trần Tuấn K bồi thường cho chị Nguyễn Thị H số tiền 1.250.000đ (một triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật và chị Nguyễn Thị H có đơn yêu cầu thi hành án mà bị cáo không thanh toán khoản tiền bồi thường thiệt hại nêu trên, thì hàng tháng bị cáo còn phải chịu thêm khoản tiền lãi chậm trả theo quy định tại Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Giao Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu 01 xe mô tô hiệu Honda Vario màu đen đỏ, biển số: 63C1-208.xx, xe có số khung: 445336, số máy: 14444946 trong thời hạn 03 (ba) tháng, nếu hết thời hạn trên không ai đến nhận thì tịch thu sung ngân sách Nhà nước Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS MAS có số IMEI 353100103812427 và 01 điện thoại di động hiệu Oppo có số IMEI 1: 865545053519839 và IMEI 2: 865545053519821.
Tịch thu tiêu hủy 01 biển số xe 59C2-857.xx (Hiện vật chứng đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh, theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 03/01/2023).
Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015 (được sửa, đổi bổ sung năm 2017) và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; Luật phí và lệ phí.
Bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 12/2023/HS-ST
Số hiệu: | 12/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 5 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về