TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 119/2022/HS-ST NGÀY 30/08/2022 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2022/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2022 theo hình thức trực tuyến, gồm 02 điểm cầu: điểm cầu trung tâm đặt tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8; điểm cầu thành phần đặt tại Nhà tạm giữ công an Quận 8, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 194/2022/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:
Võ Ngọc P; sinh năm 1991, tại Long An; nơi cư trú (Hộ khẩu thường trú:Ấp LT, xã ML, huyện CG, tỉnh LA ; chỗ ở: Không có nơi cư trú ổn định); nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 1/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Ngọc T và bà Lâm Thị P; tiền sự: Không;
Tiền án:
- Ngày 24/11/2015, Tòa án nhân dân Quận 5, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” (theo bản án số 152/2015/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 18/8/2017.
- Ngày 23/11/2018, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù, về tội “Cướp giật tài sản” (theo bản án số 450/2018/HS-ST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/10/2021.
Nhân thân: Ngày 22/7/2009, Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 02 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo bản án số 201/2009/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 30/9/2010 và đã đóng án phí hình sự sơ thẩm ngày 29/10/2009.
Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/12/2021 đến nay.
Bị cáo Võ Ngọc P có mặt tại phiên tòa tại điểm cầu thành phần.
- Bị hại: Anh Huỳnh Phước T, sinh năm 1990; nơi cư trú: (hộ khẩu thường trú: 217B Khóm N, Phường M, thành phố SĐ, tỉnh ĐT; chỗ ở: Số 10 Đường HT, phường CL, thành phố TĐ, Thành phố Hồ Chí Minh). (vắng mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Bà Nguyễn Thị Như H, sinh năm 1968; nơi cư trú: 62/11 BTX, Phường N, quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
2. Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1977; nơi cư trú: 269/31T TTV, Phường MM, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 05/12/2021, Võ Ngọc P điều khiển xe gắn máy hiệu Luvias, màu đỏ đen biển số 54P1-X lưu thông đến đường NCN, Phường MH, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh thì xảy ra va chạm với xe gắn máy lưu thông cùng chiều do anh Huỳnh Phước T điều khiển. Lúc này, P nhìn thấy anh T có đeo trên cổ 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng nên nảy sinh ý định cướp giật đem bán lấy tiền tiêu xài. Thực hiện ý định trên, P điều khiển xe đi theo phía sau anh T đến trước nhà số 380 ND, Phường C, Quận B thì thấy anh T xuống xe đi bộ băng qua đường, P liền quay đầu xe áp sát anh T, dùng tay trái giật sợi dây chuyền trên cổ của anh T rồi tăng ga bỏ chạy về đường DT, Phường M, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.
Chiếm đoạt được tài sản, P mang sợi dây chuyền đến tiệm vàng tại chợ Thiếc thuộc khu vực Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh (không rõ địa điểm) để sửa lại móc khóa rồi đeo lên cổ của mình. Bị chiếm đoạt tài sản, anh T đến Công an Phường 9, Quận 8 trình báo. Vụ việc được chuyển đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8 để điều tra làm rõ. Quá trình điều tra, truy xét, đến ngày 08/12/2021, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Quận 8 phát hiện bắt giữ P cùng vật chứng và phương tiện phạm tội. Kiểm tra trong cốp xe gắn máy của P, Công an thu giữ 01 biển số xe 59L1-X. Tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận 8, Võ Ngọc P đã khai nhận toàn bộ hành vi chiếm đọat tài sản như trên.
Ngày 08/02/2022, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 8 kết luận định giá tài sản như sau: 01 dây chuyền bằng kim loại màu vàng, dạng xoắn, dài khoảng 55cm, khối lượng 70,44 gam, hàm lượng vàng 61,86%: 18,784 chỉ x 3.198.000 đồng/chỉ = 60.071.232 đồng. Ngày 19/01/2022, Cơ quan điều tra đã lập biên bản trả lại tài sản cho anh Huỳnh Phước T; đồng thời, anh T không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.
Vật chứng vụ án:
- Biển số xe 54P1-X, qua xác minh do bà Nguyễn Thị Như H (sinh năm 1968, hộ khẩu thường trú: 62/11 BTX, Phường N, Quận TB, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên giấy đăng ký xe. Vào năm 2012, bà H bán xe cho người khác (không rõ lai lịch) nhưng không làm thủ tục sang tên đổi chủ. Ngày 23/6/2022, Cơ quan điều tra Công an Quận 8 có Công văn đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả.
- Xe gắn máy số 59L1-X, qua xác minh do bà Nguyễn Thị T (sinh năm 1977, hộ khẩu thường trú: 269/31T TTV, Phường MM, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh) đứng tên chủ sở hữu. Hiện nay, bà T không có mặt tại địa phương. P khai mượn xe gắn máy trên của một người bạn tên Bay (không rõ lai lịch) để sử dụng cá nhân và đi cướp giật tài sản. Ngày 29/6/2022, Cơ quan điều tra Công an Quận 8 có Công văn đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng đến nay chưa có kết quả.
- 01 áo khoác màu cam hiệu Lalamove của Võ Ngọc P mặc khi thực hiện hành vi phạm tội.
- 01 USB hiệu Kingston 8G màu đỏ lưu giữ hình ảnh Võ Ngọc P thực hiện hành vi phạm tội do bị hại Huỳnh Phước T giao nộp.
Tại bản Cáo trạng số 94/CT-VKSQ8 ngày 12/7/2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh truy tố bị cáo Võ Ngọc P về tội “Cướp giật tài sản”, theo các điểm c, d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Võ Ngọc P về tội “Cướp giật tài sản”. Sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, Viện kiểm sát đề nghị: Áp dụng các điểm c, d, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Võ Ngọc P từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
Về xử lý vật chứng: 01 áo khoác màu cam hiệu Lalamove của Võ Ngọc P mặc khi thực hiện hành vi phạm tội không có giá trị sử dụng nên đề nghị tịch thu tiêu hủy; 01 biển số xe 54P1-X đề nghị tịch thu tiêu hủy; 01 xe gắn máy biển số 59L1-X đề nghị tiếp tục tạm giữ và đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp theo quy định pháp luật.
Dữ liệu điện tử: 01 USB hiệu Kingston 8G màu đỏ lưu giữ hình ảnh Võ Ngọc P thực hiện hành vi phạm tội đề nghị tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường nên không đề cập giải quyết.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận; các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, ăn năn hối cải và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 8, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, xác định: Vào khoảng 10 giờ, ngày 05/12/2021, tại trước số 380 ND, Phường C, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Võ Ngọc P có hành vi điều khiển xe gắn máy công khai chiếm đoạt tài sản của anh Huỳnh Phước T rồi nhanh chóng tẩu thoát. Tài sản bị cáo chiếm đoạt của anh T là sợi dây chuyền có trị giá 60.071.232 đồng.
[3] Khi phạm tội, bị cáo sử dụng phương tiện xe gắn máy, thuộc trường hợp “Dùng thủ đoạn nguy hiểm”; tài sản chiếm đoạt có trị giá là 60.071.232 đồng, thuộc trường hợp “Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng”. Xét bị cáo Võ Ngọc P đã bị kết án 02 năm 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” vào năm 2015 chưa được xóa án tích, đến năm 2018, bị kết án 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”, bị cáo chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý nên lần phạm tội này là thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”. Đây là các tình tiết định khung hình phạt của tội “Cướp giật tài sản”.
[4] Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội “Cướp giật tài sản” như sau:
“1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
… 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm:
… c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;
...
i) Tái phạm nguy hiểm.
…
5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng.” [5] Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, đã xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của cá nhân được pháp luật bảo vệ. Do đó, Hội đồng xét xử có căn cứ xác định hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại các điểm c, d, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
[6] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xét tính nghiêm trọng của tội phạm mà bị cáo đã thực hiện, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định bằng hình phạt tù có thời hạn nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa phạm tội mới; đồng thời phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm trong xã hội.
[7] Về nhân thân, bị cáo bị kết án 02 năm tù vào năm 2009 về tội “Cướp giật tài sản”, cho thấy bị cáo có nhân thân xấu. Do đó khi lượng hình, Hội đồng xét xử cũng xem xét để có mức hình phạt phù hợp với nhân thân của bị cáo.
[8] Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố bị cáo về tội “Cướp giật tài sản” là có cơ sở, đúng người, đúng tội. Mức hình phạt mà Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 đề nghị áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội nên có căn cứ chấp nhận. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, thuộc trường hợp “phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn”. Do đó, Hội đồng xét xử áp dụng các điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
[9] Xét thấy, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo là lao động tự do, thu nhập không ổn định, điều kiện kinh tế còn khó khăn, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[10] Về xử lý vật chứng:
- 01 áo khoác màu cam hiệu Lalamove của Võ Ngọc P mặc khi thực hiện hành vi phạm tội là vật chứng không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
- Xe gắn máy số 59L1-X, hiện chưa xác định được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp nên cần tiếp tục đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp xe trên trong thời hạn 01 năm. Hết thời hạn trên không có người nhận hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước. Đối với biển số xe 54P1-X, xét không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
- 01 USB hiệu Kingston 8G màu đỏ lưu giữ hình ảnh Võ Ngọc P thực hiện hành vi phạm tội do bị hại Huỳnh Phước T giao nộp nên tiếp tục lưu theo hồ sơ vụ án.
[11] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thương gì thêm nên không xem xét. [12] Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ quy định tại Điều 23 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Võ Ngọc P phạm tội “Cướp giật tài sản”.
- Căn cứ vào các điểm c, d, i khoản 2 Điều 171; các điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Võ Ngọc P 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/12/2021.
- Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: 01 áo khoác màu cam hiệu Lalamove và 01 biển số xe 54P1-X.
Tiếp tục tạm giữ và đăng tin trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 01 năm tìm chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp của 01 xe gắn máy biển số 59L1-X, số máy: 44S1-074597, số khung: DY-074587. Hết thời hạn trên không tìm được chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp thì tịch thu nộp ngân sách nhà nước.
(Tất cả theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 04/7/2022).
- Căn cứ vào các điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Buộc bị cáo Võ Ngọc P nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 119/2022/HS-ST
Số hiệu: | 119/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về