TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 108/2024/HS-ST NGÀY 30/10/2024 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN
Ngày 30 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 106/2024/TLST-HS ngày 04 tháng 10 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 108/2024/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 10 năm 2024 đối với bị cáo:
Trần Văn B3; tên gọi khác: không; sinh ngày 08 tháng 10 năm 1996 tại huyện Y, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: xóm 1, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn Đ và bà Phạm Thị T; vợ, con: chưa có.
Tiền án, tiền sự: không Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/06/2024 cho đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nghệ An (có mặt).
- Bị hại: Chị Luyện Thị H4, sinh năm 1984 ( vắng mặt).
Nơi cư trú: xóm B3 Vực, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 07/06/2024, Trần Văn B3 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY, màu nâu, biển số 75H4 72xx ( xe của bà Phạm Thị Thịnh, sinh năm 1966, trú tại xóm 1, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An là mẹ của Trần Văn B3) đi từ nhà đến cánh đồng làng Ngọc thuộc xã Đ, huyện Y để bắt cua đồng. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, B3 đi xe mô tô đến đường tỉnh lộ 537 thuộc địa phận xã Đ, huyện Y thì nhìn thấy chị Luyện Thị H4, sinh năm 1984, trú tại xóm B3 Vực, xã Đ, huyện Y đang điều khiển xe máy điện đi ngược chiều, chị H4 để chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Sam sung Galaxy S22 màu xanh ở trong túi quần phía trước bên trái ( ½ chiếc điện thoại bị lộ ra phía ngoài túi quần ). Lúc này, B3 nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc điện thoại của chị H4 nên B3 điều khiển xe mô tô đi theo phía sau xe máy điện của chị H4. Đến khoảng 21 giờ 55 phút cùng ngày, chị H4 điều khiển xe máy điện đi đến ngã tư xã Đ, huyện Y thì rẽ phải theo đường tỉnh lộ 538 thuộc xóm B3 Vực, xã Đ, huyện Y, hướng đi về xã Diễn Tháp, huyện Diễn Châu. Khi đi được khoảng 300m, B3 điều khiển xe mô tô từ phía sau vượt lên phía bên trái theo hướng di chuyển xe máy điện của chị H4. Khi xe mô tô di chuyển song song với xe máy điện, B3 dùng tay phải giữ tay lái, điều khiển xe mô tô áp sát vào phía bên trái xe máy điện của chị H4 rồi dùng tay trái luồn qua dưới tay phải cầm và giật mạnh lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S22 đang để trong túi quần phía trước bên trái của chị H4. Sau khi lấy được điện thoại di động của chị H4, B3 cầm điện thoại ở tay trái, nhanh chóng điều khiển xe mô tô quay lại đi theo hướng về xã Đ để về nhà mình. Khi bị giật điện thoại chị H4 đuổi theo xe của B3 nhưng khi đuổi đến xóm 11, xã Đ thì không thấy B3 nữa. Đến khoảng 22 giờ 15 phút cùng ngày, B3 về đến nhà, cầm chiếc điện thoại di động chiếm đoạt của chị H4 đi lên gác phía trên phòng ngủ của bố mẹ B3, cất dấu chiếc điện thoại dưới chăn rồi đi về phòng của mình ngủ.
Ngày 06/09/2024 chị H4 đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y trình báo nội dung sự việc.
Ngày 10/06/2024 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y tiến hành bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp và khám xét khẩn cấp chỗ ở đối với Trần Văn B3.
Quá trình giữ người trong trường hợp khẩn cấp thu giữ của Trần Văn B3: 02 chiếc ủng có đặc điểm giống nhau, mỗi chiếc ủng có nhãn hiệu “TRƯỜNG SƠN” màu đỏ đã qua sử dụng; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY màu nâu, số khung PCG022TT-027291, số máy 50FMG-027291, gắn biển số 75H4-72xx, xe đã qua sử dụng; 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0058959 mang tên Phạm Đăng Ban;
01 chiếc quần lửng màu tím.
Quá trình khám xét khẩn cấp chỗ ở Trần Văn B3, thu giữ tại góc phía trong bên trái ( hướng từ ngoài nhìn vào trong) trên gác xép nhà ở của Trần Văn B3 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 1:353748822408958, số IMEI 2: 354097532408950, bên trong không có sim.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 21/KL-HĐ ĐGTS ngày 18/06/2024 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND huyện Y, kết luận:
01 ( một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 1:353748822408958, số IMEI 2: 354097532408950, bên trong không gắn sim tại thời điểm ngày 07/6/2024 trị giá 8.900.000đ ( tám triệu chín trăm nghìn đồng).
Vật chứng vụ án:
- 02 chiếc ủng có đặc điểm giống nhau, mỗi chiếc ủng có nhãn hiệu “TRƯỜNG SƠN” màu đỏ đã qua sử dụng.
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY màu nâu, số khung PCG022TT- 027291, số máy 50FMG-027291, gắn biển số 75H4-72xx, xe đã qua sử dụng.
- 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0058959 mang tên Phạm Đăng B2, nơi đăng ký thường trú: An Đô, H4 Chử, H4 Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- 01 chiếc quần lửng màu tím đã qua sử dụng.
- 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S22 màu xanh, số IMEI 1:353748822408958, số IMEI 2: 354097532408950, bên trong không có sim. Quá trình điều tra Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Y đã trả lại cho chủ sở hữu là chị Luyện Thị H4, sinh năm 1984, trú tại xóm B3 Vực, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An.
Về dân sự: Bị hại chị Luyện Thị H4 đã nhận lại tài sản và không yêu cầu Trần Văn B3 bồi thường gì thêm.
Tại bản cáo trạng số 107/CT-VKS-YT, ngày 01 tháng 10 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y đã truy tố Trần Văn B3 về tội “ Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Y giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Trần Văn B3 từ 03 năm 03 tháng đến 03 năm 06 tháng tù.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có tài sản và thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bồi thường thiệt hại gì thêm nên không xem xét.
Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
-Tịch thu tiêu hủy: 02 chiếc ủng có đặc điểm giống nhau, mỗi chiếc ủng có nhãn hiệu “TRƯỜNG SƠN” màu đỏ và 01 chiếc quần lửng màu tím (đều đã qua sử dụng).
- Trả lại cho bà Phạm Thị Thịnh, nơi cư trú: xóm 1, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An ( CCCD số 0401660163xx do C06 - BCA cấp ngày 17/12/2021): 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY màu nâu, số khung PCG022TT-027291, số máy 50FMG-027291, gắn biển số 75H4-72xx (đã qua sử dụng) và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0058959 mang tên Phạm Đăng B2, nơi đăng ký thường trú: An Đô, H4 Chử, H4 Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Án Phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định.
Bị cáo nhất trí bản luận tội của Kiểm sát viên và không tranh luận gì.
Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử khoan hồng, cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm của mình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Khoảng 21 giờ 55 phút ngày 07/06/2024, Trần Văn B3 điều khiển xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY, màu nâu, biển số 75H4 72xx đi trên đường tỉnh lộ 538 (theo hướng về xã Diễn Tháp, huyện Diễn Châu) thuộc xóm B3 Vực, xã Đ, huyện Y di chuyển song song với xe máy điện do chị Luyện Thị H4 đang điều khiển, B3 dùng tay phải giữ tay lái, điều khiển xe mô tô áp sát vào phía bên trái xe máy điện của chị H4 rồi dùng tay trái luồn qua dưới tay phải cầm và giật mạnh lấy chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy S22 đang để trong túi quần phía trước bên trái của chị H4, trị giá 8.900.000 đồng rồi phóng xe tẩu thoát.
[2] Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ được, có đủ cơ sở xác định bị cáo giật lấy tài sản của bị hại, trị giá 8.900.000 đồng.
Do đó, bị cáo đã phạm tội “Cướp giật tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại Điều 171 Bộ luật hình sự.
Bị cáo đã dùng thủ đoạn đi phương tiện xe mô mô áp sát xe máy điện của chị H4 để thực hiện hành vi cướp giật tài sản nên Viện kiểm sát truy tố bị cáo theo điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn, Bị cáo là thanh niên trẻ, khỏe nhưng không chịu tu dưỡng bản thân, chu chí làm ăn mà công khai dùng thủ đoạn nguy hiểm giật lấy tài sản của người khác để chiếm đoạt, mục đích bán lấy tiền tiêu xài cá nhân, làm mất an ninh trật tự trên địa bàn nên phải xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo.
Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai báo, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS.
Vì vậy khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt hình phạt tù với mức hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội để có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có thu nhập, không có tài sản nên không áp dụng.
[4] Về Dân sự:
Bị hại chị Luyện Thị H4 đã nhận lại tài sản đầy đủ, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Đối với bà Phạm Thị Thịnh cho bị cáo mượn xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY, màu nâu, biển số 75H4 72xx nhưng không biết bị cáo dùng để đi cướp giật tài sản nên không xử lý hình sự đối với bà Thịnh là có căn cứ, đúng pháp luật.
[6] Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát Điều tra Công an huyện Y, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Y, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại về hành vi, quyết định của của Cơ quan và người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[7] Về vật chứng: Công an thu giữ.
- 02 chiếc ủng có đặc điểm giống nhau, mỗi chiếc ủng có nhãn hiệu “TRƯỜNG SƠN” màu đỏ đã qua sử dụng.
- 01 chiếc quần lửng màu tím đã qua sử dụng.
- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY màu nâu, số khung PCG022TT- 027291, số máy 50FMG-027291, gắn biển số 75H4-72xx (xe đã qua sử dụng) và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0058959 mang tên Phạm Đăng B2, nơi đăng ký thường trú: An Đô, H4 Chử, H4 Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế cho chủ sở hữu là bà Phạm Thị Thịnh, nơi cư trú: xóm 1, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An.
Hội đồng xét xử xét thấy 02 chiếc ủng và 01 chiếc quần lửng màu tím ( đã qua sử dụng) thu giữ của bị cáo không phải là phương tiện, công cụ phạm tội nhưng tại phiên tòa bị cáo không yêu cầu trả lại và tài sản không có giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY màu nâu, số khung PCG022TT- 027291, số máy 50FMG-027291, gắn biển số 75H4-72xx (xe đã qua sử dụng) và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0058959 mang tên Phạm Đăng B2, nơi đăng ký thường trú: An Đô, H4 Chử, H4 Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chủ sở hữu là bà Phạm Thị Thịnh, đã làm thủ tục mua bán nhưng chưa đăng ký. Bị cáo mượn đi bắt cua và sử dụng vào việc thực hiện tội phạm nhưng bà Thịnh không biết nên cần trả lại tài sản cho bà Phạm Thị Thịnh là có căn cứ, đúng pháp luật.
[8] Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt Trần Văn B3 03 (Ba) năm 06 ( sáu ) tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 10 tháng 06 năm 2024.
- Vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự.
-Tịch thu tiêu hủy: 02 chiếc ủng có đặc điểm giống nhau, mỗi chiếc ủng có nhãn hiệu “TRƯỜNG SƠN” màu đỏ và 01 chiếc quần lửng màu tím ( đều đã qua sử dụng).
- Trả lại cho bà Phạm Thị Thịnh, nơi cư trú: xóm 1, xã Đ, huyện Y, tỉnh Nghệ An ( CCCD số 0401660163xx do C06 - BCA cấp ngày 17/12/2021): 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY màu nâu, số khung PCG022TT-027291, số máy 50FMG-027291, gắn biển số 75H4-72xx (đã qua sử dụng) và 01 đăng ký xe mô tô, xe máy số 0058959 mang tên Phạm Đăng B2, nơi đăng ký thường trú: An Đô, H4 Chử, H4 Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế.
(Chi cục thi hành án dân sự huyện Y quản lý ngày 03/10/2024)
- Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 về án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Trần Văn B3 phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
- Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.
Bản án về tội cướp giật tài sản số 108/2024/HS-ST
Số hiệu: | 108/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về