Bản án về tội cướp giật tài sản số 03/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÓC MÔN - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 03/2023/HS-ST NGÀY 06/01/2023 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Trong ngày 06 tháng 01 năm 2023 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 248/2022/TLST-HS ngày 10 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 366/2022/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 12 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Trần Công D. Sinh năm 1996. Tại tỉnh BT. Hộ khẩu thường trú: Ấp C, xã TT, huyện CT, tỉnh BT. Quốc tịch: Việt Nam.Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: Không. Học vấn: 07/12.Nghề nghiệp: không. Cha: Trần Văn C (chết). Mẹ: Nguyễn Thị Mai T. Anh chị em: có 03 người kể cả bị cáo.Bị cáo chưa có vợ con.

Nhân thân: Ngày 15/3/2013 bị TAND huyện Hóc Môn xử phạt 01 năm 6 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án số 35/HSST, đã chấp hành xong ngày 19/3/2015.

Tiền án: Ngày 16/8/2017 bị TAND huyện Hóc Môn xử phạt 04 năm 6 tháng tù giam về tội “Cướp giật tài sản” theo Bản án số 112/2017/HSST, đã chấp hành xong ngày 26/8/2020.

Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/01/2022 chuyển tạm giam cho đến nay

2. Nguyễn Văn M. Sinh năm 1987.Tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hộ khẩu thường trú: ấp TT 2, xã TH, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh. Quốc tịch: Việt Nam.Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: Không.Học vấn: 09/12. Nghề nghiệp: không. Cha: Nguyễn Văn S. Mẹ: Đỗ Thị U. Anh chị em: có 04 người kể cả bị cáo. Bị cáo chưa có vợ con Tiền án, Tiền sự: Không Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 01/8/2022

Bị hại: Chị Phạm Thị Ánh H, sinh năm 1985 Địa chỉ: ấp TT 2, xã TH, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ ngày 31/12/2021, Trần Công D đang ở nhà thì Nguyễn Văn M điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Winner màu đỏ đen (không rõ biển số xe) đến rủ D đi cướp giật tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì D đồng ý. Sau đó, M đưa xe gắn máy hiệu Honda Winner cho D điều khiển chở M ngồi sau đi lòng vòng các tuyến đường, tìm kiếm tài sản để cướp giật. Khi D và M chạy đến tuyến đường thuộc tổ 5, ấp Chánh 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn hướng chạy ra đường Lê Thị Hà thì D và M phát hiện chị Phạm Thị Ánh H đang sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 màu xanh cầm trên tay ngồi trên xe gắn máy hiệu Honda Vision màu đen biển số: 59Y1 – X.50 do chị Huỳnh Hồng C điều khiển chở chạy cùng chiều. M rủ D giật chiếc điện thoại di động này thì D đồng ý. Khi chị C chở chị H chạy đến trước trường THCS Tô Ký thuộc ấp Chánh 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn thì D điều khiển xe gắn máy chở M chạy lên áp sát vào bên trái xe gắn máy hiệu Honda Vision để M ngồi sau giật lấy chiếc điện thoại di động của chị H rồi cả hai tăng tốc độ tẩu thoát ra hướng đường Lê Thị H và chạy về nhà của D. Tại nhà D, M đưa chiếc điện thoại di động cướp giật được cho D giữ vì trước đây M nợ D số tiền 500.000 đồng rồi điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Winner chạy đi. Sau đó, D mang điện thoại di động vừa cướp giật được cất giấu trong túi áo khoác của Thạch Ái L (bạn gái của D). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, anh Đặng Phú H (chồng của chị H) định vị được vị trí điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 tại khu vực tổ 16, ấp Thới Tây 1, xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn nên anh H đã trình báo vụ việc đến Công an xã Tân Hiệp rồi cùng Công an xã Tân Hiệp đến nhà D kiểm tra tạm giữ điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 màu xanh và đưa D về cơ quan làm việc. Sau đó, Công an xã Tân Hiệp bàn giao hồ sơ cùng đối tượng đến Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn thụ lý điều tra theo thẩm quyền.

Đối với Nguyễn Văn M sau khi phạm tội đã bỏ trốn và bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hóc Môn ra Quyết định truy nã.Đến ngày 01/8/2022, M bị bắt giữ.

Tại Cơ quan điều tra Trần Công D và Nguyễn Văn M đã khai nhận hành vi phạm tội của mình.

Theo Bản Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 10/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn kết luận: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7 màu xanh có giá trị 1.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 232/CT-VKS - HS ngày 03 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố đối với các bị cáo như sau:

Bị cáo Trần Công D về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Nguyễn Văn M về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hóc Môn, thực hành quyền công tố giữ nguyên cáo trạng đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố: Bị cáo Trần Công D về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Bị cáo Nguyễn Văn M về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Áp dụng Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điểm d khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Bị cáo Trần Công D từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm tù.

Bị cáo Nguyễn Văn M từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm 06 tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ vật chứng không còn giá trị sử dụng: 01 (một) đôi dép kẹp màu xanh đen, 01 (một) nón bảo hiểm màu xanh trắng có chữ “Grab”, 01 (một) nón bảo hiểm màu cam, sọc trắng.

- Phương tiện sử dụng gây án là xe gắn máy hiệu Honda Winner màu đỏ đen (không rõ biển số xe) do M mua lại từ cửa hàng mua bán xe ở khu vực ngã tư An Sương (không nhớ rõ địa chỉ cửa hàng) không có làm giấy tờ mua bán xe và không làm thủ tục sang tên. Khoảng tháng 01/2022, do M không có nghề nghiệp ổn định và cần tiền tiêu xài nên M đã bán chiếc xe này cho 01 người bạn tên là N (không rõ lai lịch) với số tiền khoảng 20.000.000 đồng ở tỉnh Tây Ninh. Do hiện không rõ lai lịch của N và không rõ biển số, số khung, số máy chiếc xe mô tô hiệu Honda Winner nên Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục truy tìm, khi nào tìm được làm rõ xử lý sau.

- Trả cho bị cáo Nguyễn Văn M một căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn M.

Về dân sự: bị hại đã nhận lại được tài sản, không yêu cầu bồi thường.

Các bị cáo không tranh luận; trình bày lời nói sau cùng là các bị cáo hối hận về hành vi của bị cáo, mong Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo mức án nhẹ để sớm trở về hòa nhập xã hội thành công dân tốt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an Huyện Hóc Môn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hóc Môn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, Quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo Trần Công D, bị cáo Nguyễn Văn M thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Lời trình bày của các bị cáo phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Khoảng 14 giờ ngày 31/12/2021, Nguyễn Văn M điều khiển xe gắn máy hiệu Honda Winner màu đỏ đen (không rõ biển số xe) đến rủ D đi cướp giật tài sản bán lấy tiền chia nhau tiêu xài được D đồng ý. Sau đó, D chở M trên xe gắn máy hiệu Honda Winner của M chở M đi các tuyến đường, tìm kiếm tài sản để cướp giật. Khi D và M chạy đến tuyến đường thuộc tổ 5, ấp Chánh 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn hướng chạy ra đường Lê Thị Hà thì D và M phát hiện chị Phạm Thị Ánh H đang sử dụng điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy A7 màu xanh cầm trên tay ngồi trên xe gắn máy do chị Huỳnh Hồng C điều khiển chở chạy cùng chiều. M rủ D giật chiếc điện thoại di động này thì D đồng ý. Khi chị C chở chị H chạy đến trước trường THCS Tô Ký thuộc ấp Chánh 1, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn thì D điều khiển xe gắn máy chở M chạy lên áp sát vào bên trái xe gắn máy hiệu Honda Vision để M ngồi sau giật lấy chiếc điện thoại di động của chị H rồi cả hai tăng tốc độ tẩu thoát về nhà của D. Theo Bản Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 10/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện Hóc Môn kết luận: 01 chiếc điện thoại Samsung Galaxy A7 màu xanh có giá trị 1.500.000 đồng.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo D, bị cáo M phạm vào tội “Cướp giật tài sản”. Bị cáo D và bị cáo M dùng xe máy áp sát người bị hại giật điện thoại là hành vi nguy hiểm cho những người tham gia giao thông dễ dẫn đến gây tai nạn, là tình tiết định khung “Dùng thủ đoạn nguy hiểm” được quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 171 Bộ luật hình sự; Bị cáo D đã bị Tòa án nhân dân huyện Hóc Môn xử phạt 04 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chưa được xóa án tích, vừa chấp hành xong hình phạt, bị cáo tiếp tục phạm tội. Hành vi lần phạm tội này của bị cáo D là “Tái phạm nguy hiểm” được quy định tại Điểm i Khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[3] Vụ án mang tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, các bị cáo lười lao động, hành vi cướp giật tài sản nhằm mục đích tiêu xài cá nhân làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, nên cần xử lý nghiêm mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Hóc Môn, đề nghị áp dụng hình phạt tù giam để cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, để cải tạo giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt cho xã hội, biết chấp hành pháp luật là có căn cứ.

[5] Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ cho bị cáo như sau:

5.1 Tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

5.2 Tình tiết tăng nặng: không có

[6] Về nhân thân: Bị cáo D có nhân thân xấu, có tiền án về tội “Cướp giật tài sản” chưa được xóa án tích. Bị cáo M có nhân thân tốt chưa có tiền án, tiền sự.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Chị H không yêu cầu bồi thường thêm nên ghi nhận.

[8] Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự

8.1 Xét thấy vật chứng: 01 (một) đôi dép kẹp màu xanh đen, 01 (một) nón bảo hiểm màu xanh trắng có chữ “Grab”, 01 (một) nón bảo hiểm màu cam, sọc trắng của bị cáo không giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. 01 căn cước công dân của bị cáo Nguyễn Văn M là giấy tờ cá nhân của bị cáo cần trả lại cho bị cáo M.

8.2 Đối với phương tiện sử dụng gây án là xe gắn máy hiệu Honda Winner màu đỏ đen (không rõ biển số xe) do M mua lại từ cửa hàng mua bán xe ở khu vực ngã tư An Sương (không nhớ rõ địa chỉ cửa hàng) không có làm giấy tờ mua bán xe và không làm thủ tục sang tên. Khoảng tháng 01/2022, do M không có nghề nghiệp ổn định và cần tiền tiêu xài nên M đã bán chiếc xe này cho 01 người bạn tên là N (không rõ lai lịch) với số tiền khoảng 20.000.000 đồng ở tỉnh Tây Ninh. Do hiện không rõ lai lịch của N và không rõ biển số, số khung, số máy chiếc xe mô tô hiệu Honda Winner nên Cơ quan Cảnh sát điều tra sẽ tiếp tục truy tìm, khi nào tìm được làm rõ xử lý sau.

[9] Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo vì không có tài sản.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Trần Công D, Nguyễn Văn M phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Công D, Nguyễn Văn M phạm tội “Cướp giật tài sản”. Căn cứ điểm d, i khoản 2 Điều 171; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Trần Công D 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/01/2022.

Căn cứ Điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 01/8/2022.

2. Về trách nhiệm dân sự: Ghi nhận chị Phạm Thị Ánh H đã nhận tài sản, không yêu cầu bồi thường.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 47 Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) đôi dép kẹp màu xanh đen, 01 (một) nón bảo hiểm màu xanh trắng có chữ “Grab”, 01 (một) nón bảo hiểm màu cam, sọc trắng không còn giá trị sử dụng.

(Vật chứng tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Hóc Môn, theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 01/11/2022, bút lục 262).

Đã trả lại cho bị cáo M 01 căn cước công dân mang tên Nguyễn Văn M.

4. Về hình phạt bổ sung: Không phạt bổ sung đối với bị cáo.

5. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Bị cáo Trần Công D, bị cáo Nguyễn Văn M mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này lên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản số 03/2023/HS-ST

Số hiệu:03/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hóc Môn - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về