Bản án về tội cướp giật tài sản (dây chuyền vàng) số 132/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BOM, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 132/2021/HS-ST NGÀY 25/10/2021 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 25 tháng 10 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 151/2021/TLST - HS ngày 29 tháng 6 năm 2021; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 146/2021/QĐXXST - HS ngày 30 tháng 8 năm 2021 và Thông báo về việc thay đổi thời gian mở phiên tòa số: 151B/TB-TA ngày 12 tháng 10 năm 2021 đối với bị cáo:

NGUYỄN VĂN T, (tên gọi khác: Không), sinh ngày 02/6/1996 tại Đ. ĐKHKTT: ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đ. Giới tính: Nam Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 07/12. Dân tộc: Kinh.Tôn giáo: Không. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Nguyễn Văn D và bà Phạm Thị T. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, cụ thể:

+ Ngày 04/3/2016 bị Tòa án nhân dân quận 8, thành phố H xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt ngày 09/12/2016.

+ Ngày 28/06/2017 bị Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Đ xử phạt 03 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 17/01/2020. Tiền sự: không. Bị cáo bị giam giữ từ ngày 21/02/2021. (Có mặt).

* Bị hại: Bà Phan Hồng L, sinh năm 1979. Địa chỉ: ấp B, Xã B, huyện T, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Phạm Thị T, sinh năm 1966 và bà Nguyễn Thị Tuấn A, sinh năm 1990. Cùng trú tại: Ấp Đ, xã G, huyện T, tỉnh Đ. (Vắng mặt).

- Người làm chứng: Ông Trần Văn Nh, sinh năm 1977; ông Hồ Trọn K, sinh năm 1983; ông Vũ văn D, sinh năm 1989; ông Vũ Duy H, sinh năm 1984, Nguyễn Minh N, sinh năm 1990, ông Nguyễn Thanh S, sinh năm 1969. (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 27/9/2020 Nguyễn Văn T sử dụng xe mô tô biển số 60H1 – xxxxx rồi đưa cho đối tượng K (chưa rõ nhân thân) điều khiển chở T ngồi sau lưu thông trên đường Quốc lộ 1A theo hướng đi từ T phố Biên Hòa về huyện T, trên đường đi Tâm rủ T tìm người có tài sản sơ hở thì cướp giật bán lấy tiền tiêu xài, T đồng ý. Khi đến khu vực ngã ba Trị An thuộc xã Bắc Sơn, huyện T, tỉnh Đ thì K dừng xe cho T xuống đứng đợi, K điều khiển xe mô tô biển số 60H1 – xxxxx đi đâu đó một lúc rồi quay lại thì T thấy K đã thay biển số 66B1 – xxxxx vào xe của T, K đưa cho T 01 con dao bấm, 01 bình xịt hơi cay (loại cầm tay) và một sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng, T cất bình xịt hơi cay và con dao vào túy áo khoác, còn sợi dây chuyền T cầm trên tay. Sau đó K điều khiển xe mô tô biển số 66B1 – xxxxx chở T lưu thông trên đường từ Bắc Sơn đi xã Long Thành từ hướng Quốc lộ 1A đi trên đường Võ Nguyên Giáp. Khi đến ấp Phú Sơn, xã Bắc Sơn, huyện T thì K phát hiện anh Trần Văn Nh điều khiển xe mô tô biển số 37B1 – xxxx chở chị Phan Hồng L (vợ anh Nh) lưu thông cùng chiều phía trước, trên cổ chị Loan đeo một sợi dây chuyền vàng (loại vàng 610), nên K nói cho T biết để chuẩn bị giật sợi dây chuyền này. Lúc này K điều khiển xe từ phía sau vượt lên bên trái và áp sát xe mô tô 37B1 - xxxxx để T ngồi sau dùng tay phải giật sợi dây chuyền của chị L đang đeo trên cổ, bị giật sợi dây chuyền, chị L đưa tay lên nắm lại được mặt dây chuyền và hô “cướp, cướp”, cùng lúc này anh Nh dùng tay nắm lấy áo khoác của T và kéo lại thì xe của anh Nh bị ngã xuống đường, anh Nh vẫn nắm áo khoác của T nên bị kéo đi khoảng 05 mét, xe mô tô của T mất thăng bằng ngã xuống đường, T bỏ chạy bộ vào khu vực đường dân sinh bên hông nhà Văn Hòa ấp Phú Sơn, còn đối tượng K chạy bộ theo hướng đường Võ Nguyễn Giáp trốn thoát. Anh Nh cùng với một số người dân truy đuổi theo T, thấy vậy T đưa sợi dây chuyền của K đưa cho T và sợi dây chuyền cướp được của chị L bỏ vào miệng ngậm và một tay cầm bình xịt hơi cay, một tay cầm con dao bấm ra vừa chạy vừa chống trả. Khi T chạy được khoảng 300 mét thì bị té ngã xuống đường, anh Nh, anh Hồ Trọng K, anh Vũ Duy H và một số người dân khác đuổi đến nơi thì thấy T bất tỉnh, trên mặt và mũi chảy máu, mọi người giữ T lại và trình báo Công an. Sau đó Nguyễn Văn T được mọi người đưa đi cấp cứu và điều trị tại Bệnh viện Đa Khoa Thống Nhất, T phố Biên Hòa, tỉnh Đ. Trong quá trình điều trị T bỏ trốn, đến ngày 21/02/2021 thì bị bắt.

Tại bản kết luận định giá tài sản ngày 12/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc UBND huyện T kết luận: 01 dây chuyền vàng có trọng lượng 5,097 chỉ và 01 mặt dây chuyền vàng hình elip có trọng lượng 2,17 chỉ có tổng giá trị 18.911.000 (mười tám triệu chín trăm mười một nghìn) đồng.

Vật chứng thu giữ:

+ 01 bóp da bên trong có số tiền 34.866.000 đồng;

+ 01 bình xịt hơi cay màu đen;

+ 01 con dao bấm màu đen;

+ 01 điên thoại di động Vivo màu đen;

+ 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn Văn T;

+ 01 giấy CMND (photo) mang tên Nguyễn Văn T;

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số: 60H1 – xxxxx mang tên Nguyễn Thị Tuấn A.

+ 01 xe mô tô biển số 66B1 – xxxxx;

+ 02 sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng;

+ 01 giấy khai sinh (photo) mang tên Nguyễn Thị Kim Q;

+ 02 giấy siêu âm mang tên Nguyễn Thị Kim Q;

+ 01 mặt dây chuyền kim loại màu vàng, hình elip ở giữa có mặt ngựa màu đỏ.

Về xử lý vật chứng:

+ Đối với 01 sợi dây chuyền vàng có trọng lượng 5,097 chỉ, có đính mặt dây chuyền hình elip có trọng lượng 2,17 chỉ là tài sản hợp pháp của chị Phan Hồng L nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

+ Đối với 01 bóp da, 01 điên thoại di động Vivo màu đen, 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn Văn T, 01 giấy CMND (photo) mang tên Nguyễn Văn T là tài sản hợp pháp nên cơ quan Cảnh sát Điều tra đã trả lại cho T.

+ 01 giấy chứng nhận đăng ký xe biển số: 60H1 – xxxxx mang tên Nguyễn Thị Tuấn A và xe máy mô tô hiệu Honda Winner màu đỏ đen trắng biển số 60H1 – xxxxx, số máy KC26E1261625, số khung 2606KY003377 do chị Nguyễn Thị Tuấn A đứng tên trên giấy đăng ký xe, chị A đã bán chiếc xe này cho bà Phạm Thị T (mẹ của T) nhưng chưa làm thủ tục sang tên, T tự ý lấy xe đi mà bà T không biết; đối với số tiền 34.866.000 đồng là tiền trước đó bà T đưa cho T đi đóng tiền Ngân hàng nhưng T chưa đóng là tài sản hợp pháp của bà Tiến nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu.

+ Đối với sợi dây chuyền bằng kim loại màu vàng mà K đã đưa cho T và biển số xe 66B1 - xxxxx Tâm đã thay vào xe của T do chưa xác định rõ nguồi gốc nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra tách ra để tiếp tục điều tra và làm rõ xử lý sau.

Tại bản cáo trạng số: 158/CT/VKS -TB ngày 28 tháng 6 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố Nguyễn Văn T về tội “Cướp giật tài sản” theo các điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, đại diện VKSND huyện T giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng các điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 05 năm 06 tháng đến 06 năm tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Tòa tuyên tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm, 01 bình xịt hơi cay. Buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở để xác định: Vào khoảng 07 giờ 10 phút, ngày 27/9/2020 tại ngã ba Trị An thuộc xã Bắc Sơn, huyện T, tỉnh Đ, Nguyễn Văn T cùng với đối tượng tên K (chưa rõ nhân thân) đã có hành vi điều khiển xe mô tô áp sát xe mô tô của chị Phan Hồng L khi đang lưu thông trên đường Võ Nguyên Giáp cùng với anh Trần Văn Nh (chồng chị L) cướp giật một dây chuyền vàng trên cổ của chị L. Như vậy, Hội đồng xét xử đã có đủ căn cứ kết luận bị cáo Nguyễn Văn T đã phạm tội “Cướp giật tài sản” với 03 tình tiết định khung: Dùng thủ đoạn nguy hiểm (bị cáo ngồi trên xe mô tô đang lưu thông trên đường giật tài sản của bị hại cũng đang ngồi trên xe mô tô đang lưu thông, có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của bị hại); Hành hùng để tẩu thoát (khi bị truy đuổi bị cáo một tay cầm bình xịt hơi cay, một tay cầm con dao bấm ra chống trả để chạy thoát; Tái phạm nguy hiểm (Bị cáo đã bị xét xử nhiều lần về các tội khác nhau chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý) được quy định tại các điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

[2] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an và gây bất bình trong quần chúng nhân dân nên cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm, tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở T những người công dân tốt, sống tuân thủ pháp luật, đồng thời còn nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai báo T khẩn, ăn năn hối cải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, Điều 51 Bộ luật hình sự cần được áp dụng cho các bị cáo.

[5] Về dân sự: Đã giải quyết xong, tại phiên tòa không ai có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không đề cập.

[6] Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm, 01 bình xịt hơi cay.

[7] Đối với đối tượng K là người điều khiển xe mô tô biển số 60H1 – xxxxx (gắn biển số 66B1 – xxxxx) chở T thực hiện hành vi cướp giật tài sản, hiện Tâm đã bỏ trốn nên cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện T tiếp tục điều tra xử lý sau.

[8] Đề nghị của Kiểm sát viên phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[9] Xét tính hợp pháp của các quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử thì thấy đúng quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào các điểm d, đ, i khoản 2 Điều 171, điểm s khoản 1 Điều 51, Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017)

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Cướp giật tài sản” Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/02/2021.

2. Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 con dao bấm, 01 bình xịt hơi cay. (Vật chứng hiện đang tạm giữ tại chi cục thi hành án dân sự huyện T theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 28/6/2021).

3. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cướp giật tài sản (dây chuyền vàng) số 132/2021/HS-ST

Số hiệu:132/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trảng Bom - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về