Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản và hủy hoại tài sản số 52/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 52/2021/HS-PT NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN VÀ HỦY HOẠI TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 3 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 04/2021/TLPT-HS ngày 06 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo Nguyễn Văn N cùng 05 bị cáo khác; do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 72/2020/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã TB, tỉnh Tây Ninh.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Văn N, sinh ngày 10-3-1986, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp CX, xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: phụ giúp gia đình; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K và bà Trần Thị Tr; có vợ Nguyễn Thị Minh Th, chưa có con; tiền án, tiền sự: không có; Nhân thân: Ngày 27-7-2007, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có". Ngày 07- 3-2008, bị Tòa án nhân dân huyện GD, tỉnh Tây Ninh xử phạt 02 (hai) năm tù về tội "Cướp giật tài sản".

Bị cáo bị tạm giữ ngày 17-02-2020, tạm giam ngày 20-02-2020 đến ngày 23-4-2020 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh. Ngày 18-9-2020, bị bắt tạm giam cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Phước T (Tèo), sinh ngày 01-01-1989, tại huyện TB (nay là thị xã TB) tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp Xóm S, xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB) tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Th1 và bà Nguyễn Thị D; vợ và con: Không có;

Tiền án: không có; Tiền sự:

+ Tại Quyết định số 08/QĐ-TA, ngày 11-01-2017 của Tòa án nhân dân huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời gian chấp hành là 18 (mười tám) tháng;

+ Tại Quyết định số 23/QĐ-XPVPHC ngày 10-3-2019 của Công an xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh xử phạt 750.000 đồng về hành vi vi phạm “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

+ Tại Quyết định số 103/QĐ-UBND ngày 14-6-2019 của Ủy ban nhân dân xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thời hạn 03 (ba) tháng về hành vi vi phạm “Sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 12-01-2020, tạm giam ngày 21-01-2020 cho đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Chí T2 (Thuôl), sinh ngày 01-01-1987, tại huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp Lộc Trung, xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: phụ giúp gia đình; trình độ văn hóa (học vấn): 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Lê Thị C; vợ và con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có;

Nhân thân: ngày 01-7-2003, bị Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh xử phạt 07 (bảy) năm tù về tội "Hiếp dâm trẻ em". Ngày 27-6-2014, bị Tòa án nhân dân huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh xử phạt 06 (sáu) tháng tù về tội "Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có".

Bị cáo bị tạm giữ ngày 15-02-2020, tạm giam ngày 21-02-2020 cho đến nay; có mặt.

4. Phan Hoài A (Tý Mỏng), sinh ngày 09-7-1997, tại huyện TB (nay là thị xã TB) tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp Lộc Trung, xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ văn hóa (học vấn): 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Văn M (chết) và bà Trịnh Thị U; vợ và con: chưa có; tiền án, tiền sự: không có; Nhân thân: ngày 11-02-2015, bị Tòa án nhân dân huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

Bị cáo bị tạm giữ ngày 12-01-2020, tạm giam ngày 21-01-2020 cho đến nay; có mặt.

5. Dương Văn T3 (Tý Xuyện), sinh ngày 07-05-1995, tại tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp Lộc Trung, xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: công nhân; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Dương Văn X và bà Phạm Thị G; có vợ là Nguyễn Thị Kim Th3 và 01 con; tiền án, tiền sự: không có; Nhân thân: ngày 11-02-2015, bị Tòa án nhân dân huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh xử phạt 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội "Trộm cắp tài sản".

Bị cáo bị tạm giữ ngày 15-02-2020, tạm giam ngày 21-02-2020 đến ngày 23/4/2020 được thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh. Ngày 18-9-2020 bị bắt tạm giam cho đến nay; có mặt.

6. Phạm Thanh N1, sinh ngày 09-6-1982, tại huyện TB (nay là thị xã TB) tỉnh Tây Ninh; nơi cư trú: ấp Xóm S, xã HT, huyện TB (nay là thị xã TB), tỉnh Tây Ninh; nghề nghiệp: làm mướn; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không có; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn R và bà Lôi Thị Ng; có vợ là Nguyễn Thị D1 (đã ly hôn) có 01 con; tiền án, tiền sự: không có;

Bị cáo bị tạm giữ ngày 12-01-2020, tạm giam ngày 21-01-2020 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại:

1. Ông Nguyễn Văn R1, sinh năm 1955; địa chỉ: ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1956; địa chỉ: ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Văn L (Lưu Linh), sinh năm 1984; địa chỉ: ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1983; địa chỉ: ấp CX, xã HT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1952; địa chỉ: ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

2. Ông Trần Văn D1, sinh năm 1967; địa chỉ: ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

3. Ông Võ Trọng Th3, sinh năm 1979; địa chỉ: khu phố LV, phường LH, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

4. Bà Võ Thị X, sinh năm 1952; địa chỉ: ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng tháng 4 năm 2019, Anh Nguyễn Văn L vay của Nguyễn Văn N số tiền 100.000.000 đồng nhưng không có khả năng chi trả nên bỏ trốn.

Vào khoảng 13 giờ ngày 09-01-2020, N kêu Phạm Thanh N1 đến nhà anh L tại ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh để đòi tiền thì gặp Ông Nguyễn Văn R1 (là cha ruột, sống chung nhà với anh L), giữa ông R và N1 có cãi vã với nhau, sau đó N1 đi về. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, N điều khiển xe môtô chở N1 đến nhà ông R để tiếp tục đòi tiền nhưng không gặp ông R nên N điện thoại cho Dương Văn T3 kể lại sự việc và kêu T3 cùng với Phan Hoài A, Nguyễn Phước T, Nguyễn Chí T2 đến cầu “Cá Chúc” thuộc ấp SL, xã ĐT, thị xã TB, tỉnh Tây Ninh gặp N thì T3 đồng ý và nói lại cho A, T, T2 biết. Sau đó, A điều khiển xe môtô chở T cầm theo 01 cây dao tự chế; T3 điều khiển xe môtô chở T2 cầm theo 01 cây dao tự chế cùng đi đến cầu “Cá Chúc” gặp N và N1. Tại đây, N nói với cả nhóm là cùng đi đến nhà ông R để đập phá tài sản, tạo áp lực buộc gia đình ông R phải trả tiền cho N nhưng không được đánh người gây thương tích thì tất cả đồng ý.

Khi đến nhà ông R thì N, N1 dừng xe đứng ngoài đường; A chở T, T3 chở T2 chạy xe đến trước cổng nhà ông R; T2 và T mỗi người cầm 01 dây dao tự chế đi vào trong nhà ông R đập phá làm hư hỏng 01 tivi hiệu Sony 43 inch, 01 đầu máy hát karaoke hiệu Ariang, 01 chắn bùn trước và 01 đồng hồ báo vận tốc xe môtô Biển số 70M2-7727, 03 tấm kính cửa nhà và 01 tấm kính cửa tủ. Vợ của ông R là Bà Nguyễn Thị L có can ngăn thì bị T3 vun tay làm bà L té ngã. Sau khi đập phá xong, tất cả bỏ trốn; sau đó, ông R có đến gặp Nguyễn Văn V (anh của N) thỏa thuận trả cho N số tiền 100.000.000 đồng. Đến ngày 12/01/2020, Công an thị xã TB tiến hành bắt giữ T2, A, N1. Vào các ngày 15 và 17-02-2020, T, T3 và N đến Công an thị xã TB đầu thú.

Quá trình điều tra các bị cáo T2, T, A, N khai nhận khoảng cuối tháng 11/2019, nhiều lần N kêu T2,T, A đến ném mắm tôm, pháo nổ vào nhà ông R để gây sức ép, uy hiếp để ông R trả nợ.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 05/KLĐG ngày 10-01-2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thị xã TB, kết luận: 01 tivi hiệu Sony 43 inch, 01 đầu máy hát karaoke hiệu Ariang, 01 chắn bùn trước và 01 đồng hồ báo vận tốc xe môtô Biển số 70M2-7727, 03 tấm kính cửa nhà và 01 tấm kính cửa tủ bị thiệt hại tổng trị giá 14.906.000 đồng.

Nguyễn Văn N và Dương Văn T3 đã tác động Nguyễn Văn V (là anh ruột của N) bồi thường thiệt hại cho Ông Nguyễn Văn R1 với số tiền 20.000.000 đồng, ông R không yêu cầu bồi thường gì thêm. Đối với số tiền 100.000.000 đồng ông R không yêu cầu bị cáo N hoàn trả.

Tại Cáo trạng số 75/CT-VKSTrB ngày 30 tháng 9 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã TB đã truy tố các bị cáo Nguyễn Văn N, Nguyễn Phước T, Nguyễn Chí T2, Phan Hoài A, Dương Văn T3, Phạm Thanh N1 về các tội “Cưỡng đoạt tài sản” và “Hủy hoại tài sản” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 170, khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 72/2020/HS-ST ngày 30 tháng 11 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã TB, tỉnh Tây Ninh đã tuyên xử:

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 05 (năm) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Văn N phải chấp hành là 05 (năm) năm 09 (chín) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18-9-2020, được khấu trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 17-02-2020 đến ngày 23-4-2020.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước T (Tèo) 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phước T (Tèo) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Phước T (Tèo) phải chấp hành 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12-01-2020.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T2 (Thuôl) 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Chí T2 (Thuôl) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Chí T2 (Thuôl) phải chấp hành là 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 15-02-2020.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Hoài A (Tý Mỏng) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Hoài A (Tý Mỏng) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Phan Hoài A (Tý Mỏng) phải chấp hành là 04 (bốn) năm tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12-01-2020.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Dương Văn T3 (Tý Xuyện) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Dương Văn T3 (Tý Xuyện) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Dương Văn T3 (Tý Xuyện) phải chấp hành là 04 (bốn) năm tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18-9-2020. Được khấu trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 15-02-2020 đến ngày 23-4-2020.

Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Thanh N1 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phạm Thanh N1 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Phạm Thanh N1 phải chấp hành là 04 (bốn) năm tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12-01-2020.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí, biện pháp tư pháp và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03 tháng 12 năm 2020, các bị cáo có đơn kháng cáo kêu oan không phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” và xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo rút một phần kháng cáo về hành vi phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Tây Ninh phát biểu: Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, kháng cáo hợp lệ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút một phần kháng cáo của các bị cáo tại phiên tòa, về việc kháng cáo của các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt thì có căn cứ chấp nhận kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm mức hình phạt cho bị cáo N 01 năm tù và các bị cáo khác từ 03 đến 06 tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Phần tranh luận: các bị cáo không có ý kiến để tranh luận.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: xin Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 03 tháng 12 năm 2020, các bị cáo có đơn kháng cáo. Qua xem xét đơn về trình tự, thủ tục kháng cáo của các bị cáo phù hợp Điều 332, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Xét về hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo:

Anh Nguyễn Văn L là người trực tiếp vay tiền của bị cáo N, anh L không có tiền trả, bỏ trốn. Để đòi được tiền, Nguyễn Văn N đã nhiều lần kêu Nguyễn Phước T, Nguyễn Chí T2, Phan Hoài A ném pháo nổ, mắm tôm vào nhà ông R và cùng với Phạm Thanh N1, Dương Văn T3 đập phá tài sản của ông R gây thiệt hại tổng trị giá là 14.906.000 đồng, buộc ông R phải trả cho bị cáo N số tiền 100.000.000 đồng. Như vậy, giữa ông R và bị cáo N không có việc vay mượn tiền, ông R không có nghĩa vụ trả tiền cho bị cáo, bị cáo đã cùng đồng bọn ném pháo nổ, mắm tôm, đập phá tài sản của ông R là gây sức ép về tinh thần làm cho ông R hoảng sợ, buộc ông R phải trả cho bị cáo 100.000.000 đồng là ngoài ý muốn của ông R. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo xác nhận lời khai trong hồ sơ cũng như tại phiên tòa sơ thẩm là đúng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử hành vi của các bị cáo phạm vào tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự là đúng, các bị cáo chấp nhận, không kháng cáo; các bị cáo chỉ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt vì cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mức án đối với các bị cáo là quá nghiêm khắc.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo

[3.1] Tòa án cấp sơ thẩm tuyên xử hành vi của các bị cáo phạm vào tội “Hủy hoại tài sản” theo khoản 1 Điều 178 và tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo rút một phần yêu cầu kháng cáo về việc không phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”, giữ nguyên yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, cấp phúc thẩm chỉ xem xét yêu cầu kháng cáo về việc xin giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo.

[3.2] Hành vi phạm tội của các bị cáo Nguyễn Văn N, Nguyễn Phước T, Nguyễn Chí T2, Dương Văn T3, Phan Hoài A, Phạm Thanh N1 là nguy hiểm cho xã hội, mang tính chất “xã hội đen” đã gây hoang mang và làm mất trật tự, trị an tại địa phương nên phải bị pháp luật trừng trị để bảo đảm răn đe và phòng ngừa chung là cần thiết.

[3.3] Mức hình phạt về tội “Cưỡng đoạt tài sản”được quy định tại khoản 2 Điều 170 của Bộ luật Hình sự là từ 03 năm đến 10 năm tù. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định hình phạt đối với các bị cáo thấp nhất từ 03 năm 06 tháng đến 05 năm tù là quá nghiêm khắc so với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi, động cơ, mục đích phạm tội, vai trò và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của từng bị cáo trong vụ án. Riêng bị cáo N cũng đã khắc phục hậu quả trả lại số tiền cho ông R. Do vậy, yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo là có căn cứ chấp nhận. Cần sửa án sơ thẩm giảm mức hình phạt cho các bị cáo.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án.

[6] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo;

- Sửa bản án sơ thẩm;

1. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn N 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;

- Căn cứ khoản 1 Điều 178; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”;

- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Văn N phải chấp hành là 04 (bốn) năm 09 (chín) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18-9-2020, được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 17-02-2020 đến ngày 23-4-2020.

2. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Phước T (Tèo) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;

- Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Phước T (Tèo) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”;

- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Phước T (Tèo) phải chấp hành 04 (bốn) năm tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12-01-2020.

3. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Chí T2 (Thuôl) 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;

- Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Nguyễn Chí T2 (Thuôl) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”;

- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Nguyễn Chí T2 (Thuôl) phải chấp hành là 04 (bốn) năm tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 15-02-2020.

4. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Phan Hoài A (Tý Mỏng) 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;

- Căn cứ khoản 1 Điều 178 điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Phan Hoài A (Tý Mỏng) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”;

- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Phan Hoài A (Tý Mỏng) phải chấp hành là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12-01-2020.

5. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; các điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Dương Văn T3 (Tý Xuyện) 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”;

- Căn cứ khoản 1 Điều 178, các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Dương Văn T3 (Tý Xuyện) 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”;

- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Dương Văn T3 (Tý Xuyện) phải chấp hành là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 18-9-2020. Được khấu trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 15-02-2020 đến ngày 23-4- 2020.

6. Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017;

Xử phạt: bị cáo Phạm Thanh N1 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Căn cứ khoản 1 Điều 178; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt: bị cáo Phạm Thanh N1 06 (sáu) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”.

- Căn cứ Điều 55 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017. Tổng hợp hình phạt, bị cáo Phạm Thanh N1 phải chấp hành là 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về các tội "Cưỡng đoạt tài sản" và "Hủy hoại tài sản". Thời gian chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 12-01-2020.

7. Về án phí phúc thẩm: căn cứ điểm d khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản và hủy hoại tài sản số 52/2021/HS-PT

Số hiệu:52/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về