Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 465/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 465/2020/HS-PT NGÀY 16/09/2020 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Trong các ngày 15 và 16 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công Ki vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 282/2020/TLPT-HS ngày 01/7/2020 đối với các bị cáo Nguyễn Công T và đồng phạm, do có kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T đối với bản án hình sự sơ thẩm số 95/2020/HS-ST ngày 18/05/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Công T; sinh năm: 1993; tại: tỉnh Trà Vinh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp R, xã L, Huyện X, tỉnh Trà Vinh; chỗ ở: 88 Đường 4, tổ 3, khu phố 3, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Công M và bà Đoàn Thị Ch; vợ: Võ Mỹ Ngọc; con: có 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

- Bị cáo tại ngoại - Có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Thành H; sinh năm: 1999; tại: tỉnh Bến Tre; nơi đăng ký HKTT: ấp Quí An, xã H, Huyện Th, tỉnh Bến Tre; tạm trú: 88 Đường 4, tổ 3, khu phố 3, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở mới: nhà không số, Hẻm 83, đường T, khu phố 2, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ và bà Đoàn Thị U; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”.

- Bị cáo tại ngoại - có mặt tại phiên tòa.

3. Võ Minh T; sinh năm: 1977; tại: tỉnh Đồng Nai; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp Trường An, xã T, Hện T, tỉnh Đồng Nai; chỗ ở: 164 Đường 2, tổ 7, khu phố 1, phường T, Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Phụ hồ; trình độ học vấn: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Võ Văn M và bà Nguyễn Thị M; vợ: Lao Thị Tuyết; con: có 01 con sinh năm 1992; tiền án, tiền sự: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Bị cáo tại ngoại (có mặt).

Những người tham gia tố tụng:

- Người bào chữa:

1. Luật sư Trịnh Văn Hoan - Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV Pháp Luật Sài Gòn thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Công T (Có mặt).

2. Luật sư Phạm Trọng Êm là Luật sư của Công ty Luật TNHH MTV Bình Phước thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bình Phước bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thành H và Võ Minh T (Có mặt).

- Bị hại:

1. Anh Trần Ngọc D, sinh năm 1988; địa chỉ: 1/6/2/14 Đường 4, khu phố 6, phường T, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Anh Đỗ Văn Th, sinh năm 1995; địa chỉ: 106/1 L, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Trần Ngọc H, sinh năm 1990; địa chỉ: 80A Đường 18, khu phố 3, phường H, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

2. Anh Nguyễn Chế C, sinh năm 1995; địa chỉ: 106/1 L, Phường X, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

- Người chứng kiến:

1. Ông Huỳnh Bửu L, sinh năm 2001; Địa chỉ: 116 đường số 24, phường B, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt);

2. Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1961; Địa chỉ: 78 đường số 18, khu phố 5, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt);

3. Ông Lữ Hoàng K; Địa chỉ: 113 đường số 11, phường L, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T làm cộng tác viên với Tổ đặc nhiệm thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức. Trong quá trình hỗ trợ lực lượng Công an làm nhiệm vụ, lợi dụng lúc không có lực lượng Công an, các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T đã thực hiện hai vụ cưỡng đoạt tài sản, cụ thể như sau:

1. Vụ thứ nhất: Vào khoảng 04h00’ ngày 15/02/2019, Nguyễn Công T điều khiển xe mô tô biển số 52X2 - 2048 chở Võ Minh T cùng Nguyễn Thành H điều khiển xe mô tô biển số 51X8-0123 lưu thông trên đường Phạm Văn Đồng theo hướng từ cầu Bình Triệu về chợ Thủ Đức. Khi đến vòng xoay Linh Đông, phường Linh Đông, quận Thủ Đức thì nhóm của T phát hiện anh Trần Ngọc D đang điều khiển xe mô tô chở bạn tên Thắng lưu thông phía trước. Nhóm của T đuổi theo anh D thì anh D nghĩ nhóm của T là Công an nên sợ và tăng ga bỏ chạy. Nhóm của T đuổi theo anh D đến cầu Bình Phước thuộc Quận 12 thì xe của anh D va chạm cây chắn giảm tốc nên bị ngã xe, Thắng nằm bất tỉnh còn T giữ anh D lại. T tự xưng là Công an và yêu cầu anh D ngồi lên xe mô tô của T. T chở anh D đến quán cà phê tại địa chỉ 173 Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, còn T chạy xe của anh D theo sau. Trên đường đi, T có nói “chở nó về giao Công an phường” để anh D sợ. Khi đến quán cà phê, T hỏi anh D: “Mày có tiền không?” thì anh D trả lời “Em không có” và anh D nói với T “Anh cho em gọi điện thoại cho nhỏ em để mượn tiền” thì T đồng ý và ra giá 3.000.000 đồng. Anh D gọi điện thoại cho em ruột tên Trần Ngọc H nhờ H mang tiền ra đưa cho T để T cho anh D về. Sau đó, T giữ điện thoại di động Mobistar của anh D để liên lạc với chị H và hẹn gặp chị H tại số 1109 đường K Vạn Cân, khu phố 4, phường Linh Trung, quận Thủ Đức đế lấy tiền. Đồng thời, T gọi H đến quán cà phê nơi T đang giữ anh D. H đến nơi T đang canh chừng anh D, còn T đi gặp chị H. Khi gặp chị H, T hỏi mang bao nhiêu tiền thì chị H trả lời mang theo 5.000.000 đồng nhưng xin lại 300.000 đồng để trả tiền taxi, còn 4.700.000 đồng đưa cho T thì T đồng ý nhận tiền. Sau khi nhận tiền của chị H, T gọi điện thoại cho T nói gặp rồi, anh cho nó đi đi. Anh D được T và H cho về nhà, T vẫn giữ lại chiếc điện thoại Mobistar của anh D và Tậm chạy đến quán nước gặp T và H. Sau đó, T chia cho T 1.500.000 đồng, chia cho H 500.000 đồng, T giữ lại 2.500.000 đồng, còn 200.000 đồng trả tiền ăn uống và đổ xăng. T bán điện thoại của anh D trên mạng xã hội được 900.000 đồng và tiêu xài hết.

Tiến hành cho anh Trần Ngọc D nhận dạng, anh D nhận ra Nguyễn Công T là người đã chiếm đoạt điện thoại Mobistar và yêu cầu anh D đưa tiền thì T mới cho anh D về nhà vào ngày 15/02/2019.

2. Vụ thứ 2: Khoảng 03h00’ ngày 07/4/2019, Nguyễn Công T chở Linh (chưa rõ lai lịch) cùng H chở T chạy từ công ty Việt Thắng, phường Linh Trung, quận Thủ Đức về hướng Suối Tiên. Khi đến trước trường Đại học An ninh, phường Linh Trung, quận Thủ Đức thì thấy anh Nguyễn Chế C đang điều khiển xe mô tô biển số 59D2-625.14 chở anh Nguyễn Anh H ngồi sau dùng chân đẩy xe mô tô biển số 93H1-024.22 do anh Đỗ Văn Th điều khiển. Lúc này, cả nhóm của T đuổi theo anh Th thì ép được xe của anh Th vào lề. T móc bóp lấy 01 chiếc thẻ màu đỏ đưa cho anh Th để anh Th lo sợ, tin T là Công an kiểm tra. Linh xuống xe giữ anh Th cùng xe mô tô lại, còn T, H và T tiếp tục đuổi theo nhóm thanh niên đang chạy xe phía trước. Khi đến cầu Rạch Chiếc, Quận 2 thì H và T ngã xe và bị té H nên T đưa T và H đến bệnh viện. Sau đó, T quay lại chỗ anh Th đang bị Linh giữ rồi Linh và T đưa anh Th cùng xe mô tô của anh Th về bãi đất trống thuộc khu vực Đường 16, khu phố 5, phường Linh Trung, quận Thủ Đức nơi vắng người qua lại. T hỏi anh Th có tiền không thì anh Th nói không có, T lấy bóp của anh Th kiểm tra và lấy 01 giấy đăng ký xe biển số 93H1-024.22, 01 giấy phép lái xe, 01 chứng minh nhân dân tên Đỗ Văn Th, 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 và nói anh Th: “Mai 09 giờ đem theo 5.000.000 đồng và gọi vào số điện thoại này để chuộc lại giấy tờ và điện thoại” và hẹn gặp trước trường Đại học Nông Lâm, phường Linh Trung, quận Thủ Đức. T gỡ cục IC của xe anh Th vứt bỏ trên đường và chở Linh bỏ đi. Sau khi anh Th bị T lấy điện thoại và giấy tờ thì anh Th có kể lại cho anh Nguyễn Văn H và anh Nguyễn Chế C nghe việc anh Th bị nhóm của T chặn lại kiểm tra, T yêu cầu anh Th đưa 5.000.000 đồng và lấy điện thoại di động hiệu Samsung J7 cùng giấy chứng minh nhân dân, giấy đăng ký xe và giấy phép lái xe. Đến 09h00’ ngày hôm sau, T và Linh đến điểm hẹn trước trường Đại học An ninh nhưng không gặp được anh Th nên T đưa cho Linh điện thoại và giấy tờ của anh Th. Sau đó, khoảng 01 tuần thì Linh gặp T và đưa cho T giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe và giấy đăng ký xe của anh Th, T đã giao nộp lại cho Cơ quan điều tra.

Ngày 09/4/2019, anh Đỗ Văn Th đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức trình báo. Tiến hành cho anh Th nhận dạng, anh Th nhận ra Nguyễn Công T là người đã chặn xe của anh Th và bắt anh Th đưa 5.000.000 đồng để chuộc lại điện thoại di động hiệu Samsung J7, giấy chứng minh nhân dân, giấy phép lái xe và giấy đăng ký xe mà ngày 07/4/2019, T đã chiếm đoạt của anh Th.

Qua truy xét, ngày 06/5/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức mời Nguyễn Công T, Võ Minh T và Nguyễn Thành H đến làm việc. Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên.

Tiến hành cho Nguyễn Công T đi xác định địa điểm, T chỉ ra địa điểm tại bãi đất trống, khu phố 5, phường Linh Trung, quận Thủ Đức là nơi T cùng đồng phạm thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản của anh Đỗ Văn Th vào ngày 07/4/2019.

Tiến hành cho Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H, Võ Minh T xác định địa điểm, T chỉ ra địa điểm số 1109 đường K Vạn Cân, khu phố 4, phường Linh Trung, quận Thủ Đức là nơi T cùng đồng phạm thực hiện hành vi cưỡng đoạt tài sản của anh Trần Ngọc D vào ngày 15/02/2019, địa điểm 173 Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường Hiệp Bình Phước, quận Thủ Đức là nơi T, T và H giữ anh Trần Ngọc D.

Ngày 14/11/2019, Nguyễn Công T, Võ Minh T và Nguyễn Thành H có đơn kêu oan, không thừa nhận hành vi cưỡng đoạt tài sản của anh Trần Ngọc D, chị Trần Ngọc H và anh Đỗ Văn Th. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Thủ Đức đã điều tra, xác minh và có văn bản trả lời số 91/CQCSĐT (CSĐT-TTXH) ngày 25/12/2019.

Tại các bản kết luận định giá tài sản số 824/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 13/5/2019 và số 1484/CV-HĐĐGTSTTTHS ngày 02/8/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân quận Thủ Đức, kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 trị giá 1.800.000 đồng. 01 điện thoại di động hiệu Mibistar trị giá 1.000.000 đồng.

+Vật chứng vụ án: 01 giấy đăng ký xe tên Nguyễn Văn Hảo, 01 chứng minh nhân dân và 01 giấy phép lái xe tên Đỗ Văn Th (đã trả lại cho bị hại); 01 thẻ LLCĐ mang tên Nguyễn Công T; 01 còng số 8, 01 bình hơi cay, 01 cây roi điện, 01 cây dũ tam khúc.

Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7, 01 điện thoại di động hiệu Mobistar, 01 xe mô tô biển số 52X2-2048 và 01 xe mô tô biển số 51X8-0123 (không thu hồi được).

Về dân sự: Anh Trần Ngọc D, chị Trần Ngọc H và anh Đỗ Văn Th không yêu cầu bồi thường o đã nhận được tiền bồi thường.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 95/2020/HS-ST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên xử: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

+Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017):

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Công T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

- Xử phạt: bị cáo Võ Minh T 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

+Áp dụng khoản 1 Điều 170; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

- Xử phạt: bị cáo Nguyễn Thành H 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 01/6/2020, các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T có đơn kháng cáo toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm nêu trên của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh kêu oan, đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm, tuyên bị cáo không có tội và đình chỉ vụ án.

Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, kêu oan và cho rằng cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo thực hiện 02 vụ cưỡng đoạt tài sản của bị hại vào các ngày 15/02/2019 và ngày 07/4/2019 là không có căn cứ pháp luật.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố phát biểu ý kiến, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nhận thấy trong giai đoạn điều tra:

- Cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ và tiến hành trưng cầu giám định đối với vật chứng thu giữ, gồm: 01 còng số 8, 01 bình hơi cay, 01 cây roi điện, 01 cây dũ tam khúc” và 01 thẻ LLCĐ mang tên Nguyễn Công T màu đỏ mà Nguyễn Công T sử dụng khi ép chặn xe bị hại; để làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án và có hình thức xử lý theo quy định của pháp luật đối với hành vi sử dụng, tàng trữ số công cụ hỗ trợ bị thu giữ này của các bị cáo.

- Cần xác minh tại Bệnh viện Quân y Miền Đông Quận 9 vào khoảng thời gian từ sau 03h00’ ngày 07/4/2019, bệnh viện có tiếp nhận điều trị ca chấn tH của Võ Minh T và Nguyễn Thành H hay không? Để củng cố chứng cứ xác định vụ việc cưỡng đoạt tài sản vào ngày 07/4/2019 mà Võ Minh T và Nguyễn Thành H tham gia cùng Nguyễn Công T thực hiện.

- Tại bản án hình sự sơ thẩm số 95/2020/HS-ST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, có nhận định: Căn cứ vào đơn trình bày, tờ trình của Huỳnh Bửu L và bà Bùi Thị Ngọc Thanh ngày 10/01/2020 và ngày 11/01/2020 (Bút lục: 317; 318 và 325) với nội dung “Lúc 15h00’ ngày 08/01/2020, H đến nhà tôi tại 232/2 Đặng Văn Bi, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức nhờ tôi giúp việc ra làm chứng cho H, T, T trong vụ cưỡng đoạt tài sản mà T, T, H bị Công an khởi tố... Tôi chứng kiến toàn bộ sự việc và có viết bản tự Ki cho anh T do anh T không biết chữ và biên bản ghi lời Ki của T do tôi là người chứng kiến…”. Tuy nhiên, sau đó tại đơn trình báo sự việc và tờ tường trình của Huỳnh Bửu L ghi ngày 16/02/2020, có nội dung mâu thuẫn hoàn toàn với nội dung mà Huỳnh Bảo L đã chứng kiến nêu trên nhưng cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ.

Ngoài ra, tại biên bản ghi lời Ki vào lúc 19h00’ ngày 25/4/2019, anh Võ Đông H Ki: “Vào lúc khoảng gần 04 giờ ngày 07/4/2019, tôi có đi cùng với nhóm bạn từ Vũng Tàu về, khi tới gần gầm cầu bộ hành Suối Tiên thì có một nhóm khoảng 02 xe đi 04 người đi một Exciter màu đen đỏ và một Exciter màu xám… 02 người đi Exciter màu đen - đỏ đuổi ngang xe tôi và người ngồi sau lấy bình xịt hơi cay xịt vào mặt tôi và dùng cây chích điện chích tôi….”; và tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thành H và Võ Minh T Ki nhận cho rằng vào các ngày 15/02/2019 và ngày 07/4/2020, có rủ nhau đi tuần tra và mang theo số công cụ hỗ trợ (còng số 8, bình xịt hơi cay, cây roi điện) sử dụng để phòng chống tội phạm. Nên cần điều tra, xác minh làm rõ hành vi của các bị cáo thực hiện vào ngày 07/4/2020 có dấu hiệu của tội phạm “Cướp tài sản”.

Đối với vụ các bị cáo chiếm đoạt tài sản vào khoảng 04h00’ ngày 15/02/2019, chưa làm rõ thời điểm khi bị cáo Nguyễn Công T chở anh Trần Ngọc D đến quán cà phê tại địa chỉ 173, Quốc lộ 1A, khu phố 1, phường Hiệp Bình Chánh, quận Thủ Đức, bị cáo T chạy xe của anh D theo sau thì lúc này bị cáo Nguyễn Thành H đang ở đâu? Đồng thời các bị cáo có lời Ki khác nhau về diễn biến hành vi khách quan trong lần phạm tội này nhưng chưa tiến hành đối chất nhằm làm rõ vai trò và tính chất đồng phạm của từng bị cáo.

Xét thấy, việc điều tra ở cấp sơ thẩm không đầy đủ như nêu trên mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 95/2020/HS-ST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức để điều tra lại theo thủ tục chung. Do bản án hình sự sơ thẩm bị hủy toàn bộ để điều tra lại nên không xét đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Công T, Võ Minh T và Nguyễn Thành H.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo Võ Minh T, Nguyễn Thành H và Nguyễn Công T thống nhất với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nên không tranh luận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cụ thể:

- Luật sư Trịnh Văn Hoan bào chữa cho bị cáo T đề nghị xem xét cấp sơ thẩm cần thu thập bổ sung các tài liệu, hóa đơn khi mua đối với 02 chiếc điện thoại mà bị hại bị chiếm đoạt làm cơ sở để chứng minh quyền sở hữu về tài sản của bị hại và xác định giá trị khi định giá tài sản không thu hồi được. Tại phiên tòa, các bị cáo Ki khi đi tuần tra vào ban đêm có đeo khẩu trang, đội nón bảo hiểm và mặc áo khoác nên việc Cơ quan điều tra tổ chức cho bị hại nhận dạng bị cáo qua ảnh là không đảm bảo tính khách quan và bị cáo T khiếu nại bị thu giữ số tiền 14.500.000 đồng cùng 01 xe mô tô nhưng hồ sơ vụ án không thể hiện có biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu đối với số tài sản này.

- Luật sư Phạm Trọng Êm bào chữa cho các bị cáo Nguyễn Thành H và Võ Minh T trình bày: Hồ sơ vụ án thể hiện quá trình điều tra vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, Điều tra viên Nguyễn Trọng Huệ không được phân công điều tra nhưng vẫn ký tên vào các biên bản và hoạt động tố tụng của Cơ quan điều tra nên có cơ sở để nghi ngờ Điều tra viên đã ký sau vào các biên bản tố tụng này. Do đó, cần trưng cầu giám định màu mực phần nội dung và chữ ký của Điều tra viên thể hiện tại các biên bản tố tụng có cùng thời điểm với nhau hay không? Để đảm bảo tính khách quan của chứng cứ. Ngoài ra, tại biên bản trao trả tài sản cho bị hại Th do Điều tra viên Nguyễn Trọng Huệ lập trả lại giấy tờ của xe mô tô biển số khác so với giấy tờ là vật chứng thu giữ trong vụ án.

Các bị cáo Nguyễn Công T, Nguyễn Thanh H và Võ Minh T thống nhất với quan điểm của Luật sư bào chữa cho mình và cho rằng việc các bị cáo Ki nhận hành vi phạm tội trong thời gian bị tạm giữ 03 ngày (từ ngày 06/5/2019 đến ngày 08/5/2019) tại Công an quận Thủ Đức là do bị Điều tra viên và Cán bộ điều tra ép cung, mớm cung và đọc nội dung cho các bị cáo viết theo, cũng như ký khống vào các biên bản để trắng nhận tội để được cho về và hứa sẽ bị không xử lý.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Công T giao nộp các tài liệu:

- 02 file ghi âm và 02 bản giải trình đề ngày 10/9/2020, nội dung có liên quan trong quá trình điều tra xác định sự thật vụ án (bị cáo Nguyễn Công T cam kết hiện đang giữ 02 file gốc được ghi âm lưu giữ trong điện thoại di động của cá nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung tài liệu này). Nên cần tiến hành điều tra bổ sung thu giữ 02 file ghi âm gốc, trưng cầu cơ quan cHên môn giám định về nội dung để điều tra, xác minh làm rõ các tình tiết khách quan của vụ án? Nếu có dấu hiệu tội phạm thì xử lý theo quy định của pháp luật.

- Sau khi xét xử sơ thẩm, người làm chứng Nguyễn Văn H có đơn đề ngày 11/6/2020 (bà Nguyễn Thị Đào ký tên chứng kiến) có nội dung làm thay đổi về những tình tiết mà mình biết được liên quan đến nguồn tin tội phạm đã Ki báo và tham gia các hoạt động tố tụng khi Cơ quan điều tra tiến hành điều tra.

- Đối với Huỳnh Bửu L là người chứng kiến khi Cơ quan điều tra tiến hành hoạt động tố tụng ghi lời Ki đối với bị cáo Võ Minh T (là người không biết chữ) và là người viết bản tự Ki cho Võ Minh T. Tuy nhiên, tại đơn trình báo sự việc và tờ tường trình của Huỳnh Bửu L cùng ngày 16/02/2020 (Bút lục 376 - 377, bản photocopy) có nội dung mâu thuẫn về các tình tiết khách quan mà mình chứng kiến trước đó thể hiện tại đơn trình bày, bản tường trình của Huỳnh Bửu L và bà Bùi Thị Ngọc Thanh vào các ngày 10/01/2020 và 11/01/2020 (Bút lục: 317; 318; 325) và biên bản ghi lời Ki của Huỳnh Bửu L ngày 10/01/2020 tại Công an phường Bình Thọ, quận Thủ Đức (Bút lục 326- 327). Nhưng chưa được cấp sơ thẩm thu thập bản chính các tài liệu này trong hồ sơ vụ án để điều tra làm rõ về sự mâu thuẫn trong những lời Ki này của Huỳnh Bửu L.

Do đó, cần tiến hành điều tra bổ sung ghi lời Ki đối với Nguyễn Công T để xác định về tính hợp pháp của các tài liệu đã giao nộp nêu trên. Trong trường hợp, ông Nguyễn Văn H và Huỳnh Bửu L thay đổi lời Ki thì cần điều tra bổ sung để xác định lời Ki nào là đúng? Lý do của việc thay đổi lời Ki? Trường hợp cung cấp tài liệu hay cung cấp lời Ki sai sự thật, không phản ánh đúng diễn biến thực tế khách quan những tình tiết mà mình biết được liên quan tội phạm gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử để xác định sự thật vụ án; nếu có dấu hiệu của tội phạm thì xử lý theo quy định của pháp luật.

Xác minh tại Bệnh viện Quân y Miền Đông Quận 9 vào khoảng thời gian từ sau 03h00’ ngày 07/4/2019, bệnh viện có tiếp nhận điều trị ca chấn tH của Võ Minh T và Nguyễn Thành H để củng cố chứng cứ xác định định hành vi các bị cáo Võ Minh T và Nguyễn Thành H tham gia cùng Nguyễn Công T thực hiện vụ việc cưỡng đoạt tài sản vào ngày 07/4/2019.

Đối với vật chứng thu giữ của bị cáo trong vụ án, gồm: 01 còng số 8, 01 bình hơi cay, 01 cây roi điện, 01 cây dũ tam khúc và 01 thẻ LLCĐ mang tên Nguyễn Công T màu đỏ; cần điều tra xác minh, trưng cầu giám định và làm rõ hành vi tàng trữ, sử dụng trái phép của các bị cáo để có hình thức xử lý theo đúng quy định của pháp luật. Ngoài ra tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Công T và Nguyễn Thành H Ki quen biết đối tượng tên Linh do thường xuyên phối hợp trong thời gian phòng chống tội phạm (Linh là công tác viên của Công an Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh); nên cần xác minh làm rõ về nhân thân, lai lịch của đối tượng tên Linh (Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án hình sự đối với Linh điều tra xử lý sau) để điều tra xử lý giải quyết vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.

Hội đồng xét xử xét thấy vụ án có tình tiết mới phát sinh tại cấp phúc thẩm và việc điều tra ở cấp sơ thẩm chưa đầy đủ mà cấp phúc thẩm không thể bổ sung được. Do đó, hủy toàn bộ bản án hình sự sơ thẩm số 95/2020/HS-ST ngày 18/5/2020 để điều tra, truy tố và xét xử lại theo thủ tục chung.

Đối với kháng cáo của các bị cáo Võ Minh T, Nguyễn Thành H và Nguyễn Công T, do bản án sơ thẩm bị hủy toàn bộ nên không xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 355; điểm b khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

1. Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 95/2020/HS-ST ngày 18/5/2020 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh chuyển hồ sơ vụ án đến Viện kiểm sát nhân dân quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.

3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

508
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 465/2020/HS-PT

Số hiệu:465/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về