Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 438/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 438/2022/HS-PT NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 330/HSPT ngày 19/8/2022 đối với Nguyễn Đình T và đồng phạm do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 120/2022/HS-ST ngày 05/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Đình T; giới tính: nam; sinh năm: 1982 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố TC, phường NB, thị xã NS, tỉnh Thanh Hóa; cư trú: A chung cư HQC, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Nguyễn ĐT và bà Mai TƠ; hoàn cảnh gia đình: có vợ, chưa có con; tiền án, tiền sự: không có; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 04/02/2021 (có mặt).

2. Hồ Sỹ Đ; giới tính: nam; sinh năm: 1992 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố TC, phường NB, thị xã NS, tỉnh Thanh Hóa; cư trú: D chung cư HQC, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: buôn bán; trình độ văn hóa: 7/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Hồ ST và bà Mai TT; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: không có; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 04/02/2021 (có mặt).

3. Mai Công N; giới tính: nam; sinh năm: 1992 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố TC, phường HH, thị xã NS, tỉnh Thanh Hóa; cư trú: D chung cư HQC, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Mai CH và bà LTT; hoàn cảnh gia đình: chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không có; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 04/02/2021 (có mặt).

Các bị cáo không có kháng cáo:

1. Mai Công Đ1; giới tính: nam; sinh năm: 1992 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố TC, phường NB, thị xã NS, tỉnh Thanh Hóa; cư trú: D chung cư HQC, xã XTĐ, huyện HM, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 10/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Mai CT và bà Mai TM; hoàn cảnh gia đình: có vợ, chưa có con; tiền án, tiền sự: không có; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 04/02/2021 (vắng mặt).

2. Mai Xuân B; giới tính: nam; sinh năm: 1990 tại tỉnh Thanh Hóa; nơi đăng ký HKTT: Tổ dân phố TC, phường NB, thị xã NS, tỉnh Thanh Hóa; cư trú: MTA, tổ BT, khu phố B, phường TTN, Quận MH, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa: 12/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; con ông Mai XL và bà Hà TH; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 01 con sinh năm 2003; tiền án, tiền sự: không có; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 04/02/2021 (vắng mặt).

Người bào chữa:

1. Ông Nguyễn Mạnh Linh – Luật sư Công ty luật Tân Đại Thịnh và cộng sự thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Nguyễn Đình T (có mặt).

2. Ông Nguyễn Mạnh Linh – Luật sư Công ty luật Tân Đại Thịnh và cộng sự và ông Nguyễn Đình Thái Hùng – Luật sư Văn phòng luật sư Thái Hùng thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Mai Công N (có mặt).

3. Ông Nguyễn Thanh Nghị – Luật sư Công ty luật TNHH MTV Song Nguyễn thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Hồ Sỹ Đ (có mặt).

Ngoài ra vụ án còn có bị cáo khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Từ tháng 5/2020 đến tháng 7/2020, Phạm Ngọc P nhiều lần vay tiền của Mai Công N và Nguyễn Đình T với lãi suất 10%/tháng. Theo giấy vay nợ các bên cung cấp thì tổng số tiền vay là 1.400.000.000 đồng, thời hạn vay 30 ngày, không thỏa thuận lãi suất. Tuy nhiên, đến hạn thanh toán P không trả tiền mà khóa sim điện thoại bỏ trốn. T và N bàn bạc nhau đến địa chỉ P ghi trên giấy nợ là nhà BMBA, tổ BT, khu phố B, phường TMT, Quận MH, Thành phố Hồ Chí Minh để đòi nợ cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Ngày 10/9/2020, T và N đến địa chỉ trên dùng tay, chân đập, đá vào cửa cổng và dùng lời lẽ chửi bới, đe dọa hướng vào trong nhà P để gây áp lực đòi nợ. Thấy vậy, ông Hà Ngọc L (anh rể của P) điện thoại cho hàng xóm là ông Bùi Văn T1 nhờ qua nhà dàn xếp. Ông T1 qua và dắt T, N vào trong nhà nói chuyện. Tại đây, T nói việc P thiếu nợ mình 1.400.000.000 đồng, ông L cũng nói đây không phải nhà của P đồng thời P không ở tại đây nên đề nghị T và N không đến nhà đòi nợ nhưng T không đồng ý và nói sẽ tiếp tục đến đòi nợ. Do lo sợ nên ông L phải hứa 10 ngày sau gia đình sẽ thu xếp trả nợ nên T và N ra về.

Lần thứ hai: Vào ngày 18/9/2020 T và N tiếp tục rủ thêm Mai Công N và Hồ Sỹ Đ đến nhà P đòi nợ. Tại đây T dùng chân đạp mạnh vào cửa cổng nhiều lần đồng thời dùng những lời lẽ thô tục chửi bởi lớn tiếng hướng vào trong nhà. Thấy vậy, ông L không dám mở cửa mà tiếp tục nhờ ông T1 qua nhà nói chuyện, ông L tiếp tục hứa 10 ngày sau sẽ trả nợ nên cả nhóm ra về.

Lần thứ 3: Sau khi bán tài sản chuẩn bị được số tiền 100.000.000 đồng, ngày 28/9/2020 ông L nhờ ông T1 liên hệ nhóm T tới lấy tiền. T liền rủ Mai Công N đến nhà P. Sau khi nhận tiền, T và N ra về, T đưa cho N 50.000.000 đồng, T giữ 50.000.000 đồng. Riêng các đối tượng còn lại là đồng hương quen biết nên đi đòi tiền cùng T, không hưởng tiền công.

Lần thứ 4: Do không thấy ông L tiếp tục trả nợ thay cho P nên ngày 10/10/2020 T và N lại đến nhà P đòi nợ. Tại đây, T dùng tay, chân đá vào cửa cổng và la lớn tiếng chửi mắng đe dọa gia đình ông L. Tuy nhiên do không có tiền nên ông L không dám mở cửa, chửi được một lúc thì cả hai ra về.

Lần thứ 5: Ngày 19/12/2020, T rủ Mai Xuân B, Giáp (không rõ lai lịch) cùng N tiếp tục đến nhà P. Tại đây cả nhóm tiếp tục dùng tay, chân đập cửa, la lớn tiếng đòi nợ nhưng không ai mở cửa nên cả nhóm ra về.

Lần thứ 6: Khoảng 09 giờ 20 phút ngày 16/01/2021, T rủ Giáp đến nhà tìm P nhưng không ai mở cửa nên cả hai dùng chân đá vào cửa cổng, chửi lớn tiếng sau đó ra về.

Lần thứ 7: Khoảng 21 giờ 28 phút ngày 18/01/2021, T và N tiếp tục đến tìm P đòi nợ nhưng không ai mở cửa nên T dùng tay đập vào cửa cổng, lớn tiếng bởi bới sau đó cả hai ra về.

Lần thứ 8: Do nhiều lần đến nhà P đòi nợ nhưng không gặp được ai nên khoảng 00 giờ 20 phút ngày 23/01/22021, N thuê đối tượng Hạnh (không rõ lai lịch) chở N đến nhà P tạt sơn đỏ lên cửa cổng sau đó tẩu thoát.

Do quá lo sợ nên ông Hồ Ngọc L và gia đình đã trình báo công an. Theo kết luận định giá tài sản số 57/KLĐGTS ngày 19/5/2021 của Hội đồng định giá trong tố tụng Hình sự Quận 12 kết luận thiệt hại do hành vi tạt sơn là: 1.950.000 đồng.

Lần thứ 9: Vào lúc 18 giờ 36 phút ngày 26/01/2021 T tiếp tục rủ Giáp, Lam (không rõ lai lịch), Mai Công Đ, Hồ Sỹ Đ và Mai Công N đến nhà P đòi nợ nhưng không gặp được ai nên N và Đ dùng chân đá vào cửa cổng nhiều cái sau đó cả nhóm ra về.

Lần thứ 10: Vào lúc 20 giờ 30 phút ngày 28/01/2021, T và N tiếp tục đến nhà P, dùng chân đạp vào cánh cửa cổng, lớn tiếng đe dọa, chửi bới nhưng không ai ra nên cả hai ra về.

Lần thứ 11: Vào lúc 10 giờ 42 phút ngày 30/01/2021, T, N, Đ và B đến nhà P. Tại đây, N, T và Đ đi lại trước cổng chửi, dùng chân đá vào cánh cổng nhưng không ai ra nên tất cả ra về.

Lần thứ 12: Vào lúc 20 giờ 58 phút ngày 02/02/2021, T rủ Đ, Đ1 và N đến nhà P. Tại đây, T, N và Đ dùng tay, chân đập, đá vào cánh cổng và la hét nhưng không ai ra.

Lần thứ 13: Vào lúc 08 giờ 18 phút ngày 03/02/2021, T rủ Đ, Đ cùng N đến nhà P. Tại đây, T và N tiếp tục đá vào cánh cổng, riêng Đ vầ Đ1 ngồi tại quán cafe trước nhà ông L. Lúc này công an đến mời tất cả về trụ sở làm việc.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 120/2022/HS-ST ngày 05/7/2022 của Tòa án nhân dân Quận 12 đã quyết định:

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

+ Xử phạt: Nguyễn Đình T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự

+ Xử phạt: Hồ Sỹ Đ 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự + Xử phạt: Mai Công N 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên phạt đối với Mai Công N, Mai Công Đ1, Mai Xuân B, xử lý về vật chứng, về án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 15/7/2022, các bị cáo Nguyễn Đình T, Mai Công N và Hồ Sỹ Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa phúc thẩm nêu quan điểm kết luận cấp sơ thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” là đúng người, đúng tội, mức hình phạt đã tuyên là thỏa đáng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải, các bị cáo đều phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, đã bồi thường khắc phục hậu quả và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm cho mỗi bị cáo từ 03 đến 06 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho các bị cáo đều nêu ý kiến: Thống nhất về tội danh và điều khoản cấp sơ thẩm áp dụng tuyên phạt đối với các bị cáo. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nguyên nhân dẫn tới sự việc là do Nguyễn Ngọc P nợ tiền các bị cáo nhưng né tránh không trả. Các bị cáo vì quá nôn nóng đòi tiền đã dẫn đến hành vi phạm tội. Sau khi sự việc xảy ra, các bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả và được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt, quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải. Các bị cáo đều có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, là lao động chính trong gia đình nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm cho các bị cáo một mức hình phạt Ngoài ra, luật sư bào chữa cho bị cáo Mai Công N còn nêu ý kiến: Bị cáo Mai Công N tham gia đi cùng T đến nhà ông Hà Ngọc L 02 lần vào các ngày 18 và 28/9/2020. Tuy nhiên, lần đầu bị cáo đến chỉ để truy tìm Nguyễn Ngọc P, lần thứ hai thì T vào nhận tiền còn bị cáo đứng ngoài nên vai giúp sức của bị cáo rất hạn chế, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không áp dụng tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” và giảm cho bị cáo một mức hình phạt.

Các bị cáo đều thống nhất quan điểm bào chữa của các luật sư, không bào chữa bổ sung. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo kháng cáo trong hạn luật định nên hợp lệ.

[2] Về nội dung vụ án, căn cứ lời khai của các bị cáo, bị hại, người làm chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ thu thập được như hình ảnh trích xuất camera, giấy nhận tiền....Hội đồng xét xử xác định sự việc và đánh giá hành vi của các bị cáo như sau:

Xuất phát từ việc Nguyễn Ngọc P thiếu nợ Nguyễn Đình T tổng cộng 1.400.000.000 đồng (theo giấy vay nợ) nên T rủ thêm các đối tượng khác gồm: Mai Công N, Hồ Sỹ Đ, Mai Công N, Mai Công Đ1 và Mai Xuân B nhiều lần đến địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú của P tại số BMBA tổ BT, khu phố B, TMT, Quận MH, Thành phố Hồ Chí Minh để đòi nợ. Khi đến các bị cáo đi đông người, đến nơi dùng tay đập, chân đá vào cổng, dùng lời lẽ thô tục lớn tiếng chởi bới, đe dọa. Mặc dù ông Hà Ngọc L (anh rể P) đại diện gia đình đã nói rõ đây không phải nhà của P đồng thời P không ở tại đây, gia đình ông L cũng không có khả năng trả nợ cho P nhưng T không đồng ý. Do liên tục bị uy hiếp nên ngày 28/9/2020, ông L phải đại diện gia đình trả cho T số tiền 100.000.000 đồng. Sau khi nhận tiền, T cùng đồng phạm vẫn tiếp tục đến uy hiếp, đòi nợ, từ ngày 10/9/2020 đến 03/2/2021, cả nhóm đã 13 lần tới nhà ông L để uy hiếp đòi nợ. Đỉnh điểm vào lúc 00 giờ 20 phút ngày 23/01/2021, Mai Công N đã mua xăng trộn với sơn đỏ đến tạt vào cổng nhà ông L. Kể từ ngày xảy ra sự việc đòi nợ, nhà ông L không dám mở cửa, việc kinh doanh dịch vụ rửa xe của ông Phạm Ngọc Tứ phải tạm dừng. Hành vi của các bị cáo không chỉ xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân mà còn gây mật trật tự trị an xã hội. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản” là xét xử đúng người, đúng tội.

[3] Về mức hình phạt, xét hành vi của các bị cáo diễn ra trong thời gian dài từ ngày 10/9/2020 đến 03/2/2021, nhiều lần đến nhà uy hiếp gia đình ông Hà Ngọc L trả tiền nên mức hình phạt cấp sơ thẩm đã tuyên là thoả đáng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, thể hiện ăn năn hối cải. Giữa các bị cáo có quan hệ họ hàng, trong đó bị cáo Đ, N cũng như các bị cáo khác đi theo đều không hưởng lợi cá nhân.

Đối với bị cáo Mai Công N, tham gia cùng Nguyễn Đình T và các đối tượng khác 02 lần đến nhà ông Hà Ngọc L. Trong đó, lần thứ nhất vào ngày 18/9/2020, bị cáo đi chung để đòi nợ nhưng không có hành vi đập cửa, la hét; lần thứ hai vào ngày 28/9/2020 bị cáo đi chung với T nhưng tới nơi, T nhận số tiền 100.000.000 đồng rồi cả hai ra về nên mức độ đồng phạm của bị cáo có hạn chế hơn.

Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo đều phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, tài sản chiếm đoạt cũng đã trả cho bị hại nên xét giảm cho các bị cáo một mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và quan điểm bào chữa của các luật sư cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục các bị cáo.

[4] Đối với các bị cáo Mai Công Đ1 và Mai Xuân B mặc dù không có kháng cáo. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy các bị cáo chưa chiếm đoạt được tài sản, mỗi bị cáo đều chỉ đến nhà bị hại 02 lần nên mức độ có hạn chế; về nhân thân, các bị cáo đều phạm tội lần đầu. Sau khi phân hóa mức độ, vai trò và hậu quả hành vi phạm tội của các bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cũng nên giảm cho các bị cáo một mức hình phạt.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đình T và Hồ Sỹ Đ Mai Công N. Sửa bản án sơ thẩm.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Nguyễn Đình T 04 (bốn) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Hồ Sỹ Đ 03 (ba) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ điểm d khoản 2 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 17; Điều 58; khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Mai Công N 02 (hai) năm tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Mai Công Đ1 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

- Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

+ Xử phạt: Mai Xuân B 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù về tội “Cưỡng đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 04/02/2021.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 438/2022/HS-PT

Số hiệu:438/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về