TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI LĂNG, TỈNH QUẢNG TRỊ
BẢN ÁN 17/2021/HS-ST NGÀY 15/09/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 15 tháng 9 năm 2021, tại Hội trường Nhà văn hóa khóm 7, thị trấn Diên Sanh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 19/2021/HS-ST ngày 01/9/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2021/QĐXXST-HS ngày 01/9/2021 đối với bị cáo:
Nguyễn Hữu D, sinh ngày 25 tháng 12 năm 1983, tại tỉnh Quảng Trị; nơi cư trú: Khóm 5, thị trấn D, huyện HL, tỉnh Quảng Trị; nghề nghiệp: Giáo viên; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Ng, sinh năm 1938 (đã chết) và con bà Hồ Thị T, sinh năm 1940, trú tại: Thôn LC, xã TrS, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị; có vợ là Trần Thị Th, sinh năm 1987, có 01 con sinh năm 2016.
Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị áp dụng bị áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam từ ngày 01/6/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn X L, xã H L huyện HL, tỉnh Quảng Trị, có đơn xin vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1969; nơi cư trú: Thôn LCh, xã Tr S, huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị, vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Do quen biết từ trước và nảy sinh tình cảm nên vào ngày 30/5/2021 tại nhà nghỉ Phúc Loan ở xã Hải Thượng, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, Nguyễn Thị Th, sinh năm 1988, trú tại: Thôn XL xã HL, huyện Hải Lăng và Nguyễn Hữu D, sinh năm 1983, trú tại: Khóm 5, thị trấn DS, huyện HL đã quan hệ tình dục, cùng đồng ý quay video. Lúc này, Th để cho D lấy điện thoại di động của Th quay clip quan hệ tình dục của hai người rồi chuyển sang điện thoại của D bằng cách gửi từ tài khoản Zalo “Bí” của Th sang tài khoản Zalo “nguyenhuudungbdt” của D, sau đó xóa dữ liệu trên máy của Th.
Ngày 31/5/2021, do cần tiền nên D nãy sinh ý định dùng đoạn clip nêu trên để uy hiếp tinh thần nhằm mục đích buộc Th phải đưa tiền cho D. Vì vậy, trong các ngày 31/5/2021, 01/6/2021, D nhiều lần nhắn tin cho Th qua ứng dụng Zalo, đe dọa phát tán clip làm Th lo sợ nên đã thỏa thuận đưa cho D số tiền 8.000.000 đồng để xóa clip.
Khoảng 17 giờ ngày 01/6/2021, D điều khiển xe mô tô biển số 74K4-5176 (của chị gái mình là Nguyễn Thị L) và Th điều khiển xe mô tô biển số 74F1-012.30 của mình đến gặp nhau tại đường Ngô Quyền thuộc khóm 9, thị trấn Diên Sanh. Lúc này, D lấy máy điện thoại mở đoạn clip quan hệ tình dục để hai người cùng xem, sau đó xóa rồi rút thẻ sim vứt bỏ và đưa điện thoại cho Th. Khi D đang nhận 8.000.000 đồng của Th thì tổ công tác Công an huyện Hải Lăng phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Tại Bản cáo trạng số 15/CT-VKS-HL, ngày 31/8/2021, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng đã truy tố bị cáo Nguyễn Hữu D về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã nêu.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Hữu D về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự như cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu D từ 12-18 tháng tù.
Về dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên không xem xét giải quyết; về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung, màu vàng đồng đã qua sử dụng (mặt trước đã vỡ, không kiểm tra tình trạng bên trong của máy) của bị cáo Nguyễn Hữu D; trả lại cho chị Nguyễn Thị Th 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung, màu đen, có ốp lưng màu đỏ đã qua sử dụng (không kiểm tra tình trạng bên trong của máy). (Vật chứng đang ở tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Lăng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng).
Bi hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì và đề nghị Hội đồng xét xử theo quy định của pháp luật.
Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận đối với lời luận tội của Kiểm sát viên. Tại lời nói sau cùng: bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Hải Lăng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, tình tự, thủ tục quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo:
Do cần tiền tiêu xài nên khi quay được clip ghi lại cảnh quan hệ tình dục của mình với Nguyễn Thị Th, Nguyễn Hữu D nãy sinh ý định sử dụng clip này để đe dọa, uy hiếp tinh thần nhằm mục đích buộc Th phải đưa tiền cho D. Đến khoảng 17 giờ ngày 01/6/2021, D điều khiển xe mô tô biển số 74K4-5176, Th điều khiển xe mô tô biển số 74F1-012.30 đến gặp nhau tại đường Ngô Quyền thuộc khóm 9, thị trấn Diên Sanh, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, D mở clip quan hệ tình dục của hai người cho Th xem. Do sợ người khác phát hiện clip nên khi D xóa rồi rút thẻ sim vứt bỏ và đưa điện thoại cho Th thì Th lấy số tiền 8.000.000 đồng đưa cho D. Khi D lấy tiền và đang đếm thì bị tổ công tác Công an huyện Hải Lăng bắt quả tang.
Hành vi nêu trên của bị cáo đã yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự
[3]. Nguyễn Hữu D có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết pháp luật (là giáo viên công tác tại trường Trung học phổ thông B, huyện Hải Lăng) nhưng thiếu tu dưỡng, rèn luyện, chỉ vì nhu cầu của bản thân mà đã có hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt số tiền 8.000.000 đồng (tám triệu đồng) của chị Nguyễn Thị Th. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đe dọa, uy hiếp tinh thần của người khác để chiếm đoạt tài sản; xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an ở địa phương. Vì vậy, cần xử lý nghiêm minh trước pháp luật nhằm răn đe giáo dục, phòng ngừa chung.
[4]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có
[5]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hải Lăng cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[6].Về trách nhiệm dân sự: Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
[7] .Về vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Đối với 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung, màu vàng đồng đã qua sử dụng (mặt trước đã vỡ, không kiểm tra tình trạng bên trong của máy) của bị cáo Nguyễn Hữu D dùng làm phương tiện nhắn tin qua zalo để liên lạc với chị Thương nhằm thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước; 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung, màu đen, có ốp lưng màu đỏ đã qua sử dụng (không kiểm tra tình trạng bên trong của máy), còn giá trị sử dụng, chị Th có đơn xin nhận lại tài sản để sử dụng nên trả lại cho chị Nguyễn Thị Th.
[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.
1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu D phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”
2. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu D 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 01/6/2021.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 45 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung, màu vàng đồng đã qua sử dụng (mặt trước đã vỡ, không kiểm tra tình trạng bên trong của máy) của bị cáo Nguyễn Hữu D; trả lại cho chị Nguyễn Thị Th. sinh năm 1988; nơi cư trú: Thôn Xuân Lâm, xã Hải Lâm, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị 01 điện thoại di dộng nhãn hiệu Samsung, màu đen, có ốp lưng màu đỏ đã qua sử dụng (không kiểm tra tình trạng bên trong của máy).
(Vật chứng đang ở tại kho Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/9/2021 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hải Lăng và Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Lăng).
Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội. Bị cáo Nguyễn Hữu D phải chịu 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết hợp lệ./.
Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 17/2021/HS-ST
Số hiệu: | 17/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hải Lăng - Quảng Trị |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 15/09/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về