Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 13/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN HÀ ĐÔNG, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 13/2021/HS-ST NGÀY 11/01/2021 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 11 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 315/2020/HSST, ngày 30 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 316/2020/QĐXXST - HS ngày 28/12/2020, đối với các bị cáo:

1. ĐẶNG QUANG H - sinh năm 1982; HKTT: thành phố H; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Trình độ văn hóa: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Đặng Văn B, sinh năm 1949 (đã chết) và bà Lưu Thị N, sinh năm 1952 (đã chết); Vợ là Trần Phương V (đã ly hôn); Con 01 con sinh năm 2011.

Tiền án, tiền sự: không Nhân thân: Bản án hình sự sơ thẩm số 35/2017/HSST ngày 07/3/2017, Tòa án nhân dân quận Long Biên, thành phố Hà Nội, xử phạt 15 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản (đã xoá án tích).

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2020 đến nay tại trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội.

2. NGUYỄN THÀNH N - SN 1993; HKTT: tỉnh Ph; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Nguyễn Công C, sinh năm 1965 và bà Hồ Thị N, sinh năm 1970; Vợ là Đặng Thị Đ, sinh năm 1991 (đã ly hôn); Có 01 con sinh năm 2014;

Tiền án, tiền sự: chưa;

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/7/2020 đến nay tại trại tạm giam số 2 - Công an thành phố Hà Nội.

3. CÙ CHÍ HƯ - SN 2001; HKTT: tỉnh Ph; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: kinh; Tôn giáo, đảng phái: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Cù Văn Ch, sinh năm 1977 và bà Bùi Thị Th, sinh năm 1979; Vợ con: chưa;

Tiền án, tiền sự: Chưa. Bị cáo được tại ngoại (các bị cáo có mặt tại phiên tòa)

4. Người bị hại:

- Anh Nguyễn Trọng T, sinh năm 2001 (vắng mặt).

HKTT: thôn D, xã N, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà N.

- Anh Trần Xuân Quang, sinh năm 2001 (vắng mặt) Trú tại: thôn T, xã P, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà N

5. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: anh Nguyễn Văn H, sinh năm 1993 (vắng mặt).

HKTT: thôn V, xã T, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Các bị cáo Đặng Quang H, Nguyễn Thành N, Cù Chí H bị Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông, thành phố Hà Nội truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 21 giờ 30 phút ngày 08/7/2020, anh Nguyễn Trọng Tuấn điều khiển chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Sirius, BKS 61Z1-7765 chở anh Trần Xuân Quang đi chơi thì gặp 02 thanh niên (không rõ tên tuổi, địa chỉ) đi trên 01 xe máy, đi sát xe của anh Tuấn và anh Quang mời chào, quảng cáo về dịch vụ masage từ A đến Z (anh Tuấn và anh Quang đều hiểu là dịch vụ masage và mua dâm) với giá 250.000 đồng, Anh Tuấn và anh Quang đồng ý. Sau đó, hai người này đưa anh Tuấn và anh Quang đến quán massage (không có biển hiệu) ở số 41 đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, TP. Hà Nội do Nguyễn Văn Hùng, sinh năm 1993; HKTT: xã Tân Thành, huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang làm chủ. Khoảng 21 giờ 40 phút cùng ngày tại quán massage của Hùng, anh Tuấn và anh Quang gặp Nguyễn Thành N, Đặng Quang H, Cù Chí H đều là nhân viên của quán massage. Tại đây, H dẫn anh Quang và anh Tuấn lên tầng 2 để massage, H nói với anh Tuấn và anh Quang tiền vé là 300.000 đồng/người từ A đến Z và đưa tiền trước. Anh Quang và anh Tuấn đồng ý. Anh Quang đưa cho H 500.000 đồng (tiền thừa là 200.000 đồng, H chưa trả lại cho anh Quang), anh Tuấn đưa cho H 300.000 đồng. Sau đó, mỗi người đều được 01 nhân viên nữ của quán massage dẫn vào 01 phòng để đấm lưng và đắp mặt (không rõ tên, tuổi cụ thể của nhân viên nữ). H cầm 800.000 đồng đưa cho N. Trong khi được massage, anh Tuấn và anh Quang có đặt vấn đề quan hệ tình dục thì nhân viên nữ nói nếu muốn quan hệ tình dục thì phải đi ra ngoài và phải đưa thêm tiền là 400.000 đồng cho 02 tiếng. Thấy nhân viên nói vậy, anh Tuấn và anh Quang không đồng ý và không massage nữa, cả 2 đi xuống tầng 1 để anh Quang lấy tiền thừa rồi đi về. Tại tầng 1 của quán lúc đó có Nguyễn Thành N, Đặng Quang H và Cù Chí H, N yêu cầu anh Quang và anh Tuấn ngồi xuống ghế nói chuyện xem có đắp mặt nạ và dùng tinh dầu ngọc trai không, Tuấn nói “có dùng”. Thấy Quang và Tuấn ở nơi khác đến và có vẻ mặt hiền lành nên N cùng H và H đã thực hiện ý định cưỡng đoạt tài sản của Quang và Tuấn. N cầm bảng giá dịch vụ nói với anh Quang và anh Tuấn “đắp mặt nạ hết 450.000 đồng, dùng tinh dầu hết 400.000 đồng/người; ngọc trai hết 450.000 đồng/người và tiền bo nhân viên là 250.000 đồng/người, mỗi người phải đóng thêm 1.550.000 đồng, tổng cộng hai người phải trả là 3.100.000 đồng”. Thấy N nói vậy, anh Tuấn và anh Quang nói không có tiền và thắc mắc về giá cả thì N nói ở đây chỉ massage, còn dùng thêm dịch vụ gì thì phải tính tiền dịch vụ đó, anh Quang và anh Tuấn vẫn nói không có tiền. Thấy vậy, H chửi anh Quang và anh Tuấn “Đ.mẹ chúng mày đi ăn chơi mà không có tiền à?”. Đồng thời, H yêu cầu anh Quang và anh Tuấn bỏ ví ra để H kiểm tra xem trong ví có tiền không. Do sợ và bị ép nên anh Tuấn lấy hết số tiền có trong ví được 70.000 đồng để trên mặt bàn còn anh Quang lấy số 270.000 đồng để lên mặt bàn (trước mặt N và H). H cầm số tiền của anh Quang và anh Tuấn đếm lại và để trên mặt bàn. N cầm tiền và trả lại cho anh Quang và anh Tuấn mỗi người 20.000 đồng, lý do không cầm tiền lẻ. Toàn bộ số tiền còn lại là 300.000 đồng N giữ lại. H rút điện thoại ra giả vờ gọi điện thoại nói “Anh em đang ở đâu đến quán có thằng phá quán”, mục đích để dọa anh Quang và anh Tuấn buộc phải trả tiền. H tiếp tục yêu cầu anh Quang và anh Tuấn trả tiền anh Tuấn nói không có. H nói với N “thu vé của nó bao nhiêu thì trả nó”. Rồi quay sang nói với anh Quang: “Bây giờ tao trả lại tiền cho mày, tao đéo thèm làm việc với mày nữa, tí nữa sẽ có mấy thằng em tao làm việc riêng với mày sau”. Mục đích H nói như vậy để đe dọa buộc anh Quang và Tuấn phải trả nốt tiền. Sau đó, N lấy trong túi ra 300.000 đồng và lấy trên mặt bàn 50.000 đồng đưa cho anh Quang và đuổi anh Quang ra ngoài quán. H đứng lên kéo cửa quán lại mục đích không cho anh Tuấn chạy ra ngoài và buộc phải trả tiền, H tiếp tục yêu cầu anh Tuấn trả tiền. Do sợ bị đánh nên anh Tuấn nói khoảng 2 đến 3 ngày nữa mới thanh toán được. H nói: Có gì để lại làm tin không. Còn N nói: Mày để lại điện thoại và viết lại giấy tờ cho tao. Anh Tuấn xin các đối tượng cho để lại sim điện thoại để làm tin thì lúc này, ở ngoài cửa quán H và anh Quang to tiếng với nhau, do lo sợ có việc không hay xảy ra nên H đã cho anh Tuấn về.

Ngay sau đó, vào hồi 23 giờ 00 phút ngày 08/7/2020 và hồi 00 giờ 05 phút ngày 09/7/2020, anh Quang và anh Tuấn đã đến Công an phường Mộ Lao, quận Hà Đông trình báo.

Ngày 09/7/2020, Nguyễn Thành N và Đặng Quang H đến công an phường Mộ Lao, quận Hà Đông xin đầu thú khai nhận hành vi của mình.

* Vật chứng thu giữ:

Thu của Đặng Quang H: 01 điện thoại di động Iphone 7, màu vàng, đã qua sử dụng, là phương tiện H sử dụng nhằm mục đích để đe dọa cưỡng đoạt tài sản của anh Tuấn và anh Quang.

Thu của Nguyễn Thành N: số tiền 750.000 đồng, trong đó có 350.000 đồng là tiền mà N cùng đồng bọn cưỡng đoạt của Nguyễn Trọng Tuấn và 400.000 đồng cưỡng đoạt của Trần Xuân Quang.

Ngoài ra còn thu giữ tại quán massage ở số 41 đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội 01 giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số 0108028019 mang tên Nguyễn Văn Hùng và 01 tờ giấy A4 có in chữ bảng giá dịch vụ được ép plastic bảo quản, có phông màu đỏ trắng, nền chữ màu đỏ, màu đen;.

Bản cáo trạng số 314/CT – VKS – HS ngày 30/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố Đặng Quang H, Nguyễn Thành N, Cù Chí H về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ Luật hình sự. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị:

- Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Đặng Quang H từ 15 đến 18 tháng tù. Nguyễn Thành N từ 15 đến 18 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Cù Chí H từ 12 đến 15 tháng tù nH cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 24 đến 30 tháng.

Trả lại người bị hại số tiền các bị cáo đã thu giữ Tịch thu chiếc điện thoại di động của Đặng Quang H.

Các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa, các bị cáo Đặng Quang H, Nguyễn Thành N, Cù Chí H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung trên.

Xét thấy, lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai người bị hại, biên bản nhận dạng, sơ đồ hiện trường cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Đêm ngày 08/7/2020 rạng sáng ngày 09/7/2020, tại quán Massage ở số 41, đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Nguyễn Thành N, Đặng Quang H và Cù Chí H thực hiện hành vi đe dọa, uy hiếp tinh thần nhằm chiếm đoạt của các anh Trần Xuân Quang và Nguyễn Trọng Tuấn số tiền 3.100.000 đồng.

Hành vi trên của các bị cáo là phạm tội Cưỡng đoạt tài sản, Viện kiểm sát nhân dân quận Hà Đông truy tố các bị cáo theo khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự, là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an an toàn xã hội. Bị cáo còn trẻ, song không chịu học tập, rèn luyện, sớm đi vào con đường phạm tội. Bị cáo Đặng Quang H đã có 01 tiền án (đã xóa). Trong vụ án này, Đặng Quang H và Nguyễn Thành N là người thực hiện những hành vi cưỡng ép, đe dọa yêu cầu anh Tuấn, anh Quang trả tiền, giữ vai trò chính. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo Đặng Quang H, Nguyễn Thành N khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành người tốt. Đối với Cù Chí H mới làm tại quán được 01 ngày, là người chứng kiến và làm theo sự sai bảo của H, phạm tội lần đầu với vai trò ít nghiêm trọng, nên được xem xét miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện, cho bị cáo H được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục và đáp ứng đấu tranh phòng ngừa chung .

Tuy nhiên, khi lượng hình cần xem xét: tại cơ quan điều tra cũng như trước phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo Nguyễn Thành N, Cù Chí H nhân thân chưa có tiền án tiền sự. Bị cáo H, N ra đầu thú. Bị cáo H có ông nội được tặng kỷ niệm chương thanh niên xung phong và bác ruột là liệt sỹ, hoàn cảnh gia đình khó khăn, nên được xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Xét vai trò của từng bị cáo trong vụ án thấy, vụ án đồng phạm có tính chất giản đơn. Đặng Quang H và Nguyễn Thành N đều là người thực hiện, giữ vai trò chính. Đặng Quang H nhân thân có 01 tiền án, nên mức án đối với H cao hơn N, cuối cùng là Cù Chí H.

Về hình phạt bổ sung: các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

Xử lý vật chứng: chiếc điện thoại di động thu giữ của Đặng Quang H, là phương tiện phạm tội, cần tịch thu phát mại sung quỹ nhà nước.

Đối với số tiền 750.000 đồng thu giữ của Nguyễn Thành N, là tiền do các bị cáo thu tiền massage của anh Nguyễn Trọng Tuấn 350.000 đồng và 400.000 đồng của anh Trần Xuân Quang, nay trả lại cho anh Tuấn, anh Quang.

Đối với Nguyễn Văn Hùng là chủ quán massage ở số 41 đường Thanh Bình, phường Mộ Lao, quận Hà Đông, thành phố Hà Nội. Kết quả điều tra xác định: Nguyễn Văn Hùng đã được UBND quận Hà Đông cấp giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên đến ngày 08/7/2020 Hùng chưa được cấp đầy đủ các giấy tờ liên quan để được phép hoạt động. Do tại thời điểm xảy ra vụ án Hùng không có mặt tại quán, không chỉ đạo và không tham gia cùng Nguyễn Thành N, Đặng Quang H và Cù Chí H cưỡng đoạt tiền của khách đến quán massage, nên không có cơ sở xử lý hình sự. Tuy nhiên, Hùng không quản lý nhân viên để xảy ra vụ cưỡng đoạt tài sản, nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Hà Đông đã có công văn đề nghị UBND quận Hà Đông thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh của Hùng, là có căn cứ.

Về hành vi quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận thấy: quá trình điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đúng quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Đặng Quang H, Nguyễn Thành N, Cù Chí H phạm tộiCưỡng đoạt tài sản”.

2. Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51Bộ luật hình sự, xử phạt:

- Đặng Quang H 17 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/7/2020.

- Nguyễn Thành N 15 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 09/7/2020.

3. Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt:

Cù Chí H 12 tháng tù nH cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao Cù Chí H cho Ủy ban nhân dân xã Vạn Xuân, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ giám sát giáo dục trong thời gian thử thách.

Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên. Thì tòa án có thể buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới, thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 bộ luật hình sự.

4. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điếu 135, 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Toà án và danh mục mức án phí, lệ phí Tòa án ngày 30/12/2016.

Trả lại anh Trần Xuân Quang 400.000 đồng, trả lại anh Nguyễn Trọng Tuấn 350.000 đồng (đã được chuyển vào tài khoản 3949.0.1052739 của Chi cục thi hành án dân sự quận Hà Đông, tại kho bạc nhà nước quận Hà Đông ngày 01/02/2021).

Tịch thu phát mại nộp ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Iphone 7, màu vàng, đã qua sử dụng (tình trạng như biên bản bàn giao vật chứng giữa Công an và Chi cục thi hành án quận Hà Đông ngày 26/01/2021).

Mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản sao bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

272
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản số 13/2021/HS-ST

Số hiệu:13/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hà Đông - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về