Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản (đe doạ phát tán ảnh khoả thân) số 37/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁI, TỈNH YÊN BÁI

BẢN ÁN 37/2022/HS-ST NGÀY 29/06/2022 VỀ TỘI CƯỠNG ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 29 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 31/2022/TLST- HS ngày 13/5/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2022/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2022, đối với bị cáo:

Trần Anh T; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày 12 tháng 11 năm 1997, tại tỉnh Yên Bái; Giới tính: Nam; Trú tại: Tổ x, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Trần Văn H - Sinh năm 1963 và bà Trần Thị T - Sinh năm 1973; Vợ là Trần Diễm Q - Sinh năm 2000 và có 01 con sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 30-01-2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái – Có mặt.

* Bị hại: Chị Nguyễn Thị Mai H, sinh năm 2003; Địa chỉ: Thôn T, xã T , huyện Y, tỉnh Yên Bái - Vắng mặt.

* Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1. Chị Triệu Thị Ngọc A, sinh năm 2000; Địa chỉ: Số nhà x, đường T, thị trấn M, huyện V, tỉnh Yên Bái - Vắng mặt.

2. Bà Trần Thị T, sinh năm 1973; Địa chỉ: Tổ x, thị trấn Y, huyện Y, tỉnh Yên Bái - Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Ngày 26/01/2022, thông qua tính năng hẹn hò trên mạng xã hội Facebook Trần Anh T đã sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook với tên hiển thị “L D” để kết bạn làm quen với tài khoản Facebook với tên hiển thị “Nguyễn Mai H” do chị Nguyễn Thị Mai H là người sử dụng. Quá trình trò chuyện, nhắn tin T đã xin số điện thoại của chị H để kết bạn, chị H đồng ý cho T số điện thoại. Sau đó T đã sử dụng tài khoản mạng xã hội Zalo với tên hiển thị “P T” kết bạn với tài khoản mạng xã hội Zalo của chị H với tên hiển thị là “Nguyễn Mai H”; Tú giới thiệu mình tên là “T” nhà ở H. Ngày 27/01/2022, T đưa ra đề nghị cho chị H lựa chọn giữa việc “ngủ qua đêm” với T sẽ nhận được số tiền là 15.000.000 đồng hoặc chụp ảnh khỏa thân gửi cho T sẽ nhận được số tiền là 10.000.000 đồng. Do thiếu tiền tiêu sài nên chị H đã chọn chụp ảnh “khỏa thân” gửi cho T để được nhận tiền. Trong khoảng thời gian từ ngày 27/01/2022 đến ngày 29/01/2022, chị H đã gửi nhiều hình ảnh, video với tình trạng cơ thể của mình “khỏa thân” (không mặc quần áo) đến tài khoản Zalo “P T” mà T sử dụng. Tuy nhiên sau khi chị H gửi ảnh, video T đã không chuyển tiền cho chị H như thỏa thuận. Đến chiều ngày 29/01/2022, T nhắn tin, gọi điện qua ứng dụng mạng xã hội Zalo đe dọa, yêu cầu chị H phải chuyển cho T số tiền là 3.000.000 đồng để được xóa hình ảnh, video khỏa thân chị H đã gửi cho T trước đó, nếu không chuyển tiền theo yêu cầu T sẽ đăng những hình ảnh, video khỏa thân của chị H lên mạng xã hội. Lúc đầu chị H không đồng ý chuyển tiền thì T liên tục nhắn tin, gọi điện qua ứng dụng mạng xã hội Zalo đe dọa và yêu cầu chị H chuyển tiền. Lo sợ hình ảnh, video khỏa thân của mình bị đăng lên mạng xã hội nên chị H đã đồng ý chuyển tiền theo yêu cầu của T. Do chị H không có tiền đi xe ôtô taxi nên T đồng ý giảm cho chị H số tiền 200.000 đồng và yêu cầu chị H mang số tiền 2.800.000 đồng cuộn vào túi nilon mang để ở khu vực trục đường đang thi công gần cầu T, rồi chụp lại vị trí để tiền gửi cho T, sau đó sẽ có người đến lấy số tiền trên.

Đến khoảng 21 giờ 30 phút ngày 29/01/2022, chị H đã mang số tiền 2.800.000 đồng bao gồm 04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 04 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng cuộn vào túi nilon đến để ở khu vực ven đường đang thi công gần cầu T (thuộc tổ x, phường Y, thành phố Y, tỉnh Yên Bái) rồi quay video vị trí để tiền gửi cho T thông qua tài khoản Zalo “P T” và trở về. Trên đường trở về, lo sợ T sẽ tiếp tục đe dọa để chiếm đoạt tài sản nhiều lần nữa nên chị H đã đến Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Yên Bái để trình báo sự việc trên. Sau khi tiếp nhận đơn trình báo của chị H vào hồi 22 giờ 05 phút ngày 29-01-2022, tổ tuần tra của Công an thành phố Yên Bái đang tiến hành kiểm tra, rà soát khu vực trục đường đang thi công gần cầu T thì phát hiện Trần Anh T điều khiển xe môtô nhãn hiệu HONDA WAVE màu cam, BKS: 21B1-74868 đến gần khu vực chị H đặt tiền, rồi xuống xe tìm kiếm. Tổ tuần tra kiểm tra thì T trình bày đến khu vực trên để lấy số tiền chị H đã để ở đó. Tiến hành kiểm tra khu vực T đang tìm kiếm thì phát hiện số tiền 2.800.000 đồng được cất giấu tại ven đường.

* Vật chứng, đồ vật thu giữ:

Quá trình kiểm tra đối với Trần Anh T đã thu giữ: Số tiền 2.800.000 đồng gồm 04 tờ tiền mệnh giá 500.000 đồng và 04 tờ tiền mệnh giá 200.000 đồng; 01 điện thoại kiểu dáng IPHONE XS MAX, màu đen, số IMELL: 357275092479606, đã qua sử dụng, có gắn sim số điện thoại: 0868138898; 01 xe mô tô nhãn hiệu HONDA WAVE, màu cam, BKS: 21B1-74868, đã qua sử dụng; 01 căn cước công dân số:

015097005820 mang tên Trần Anh T, cấp ngày: 02/10/2021.

Chị Nguyễn Thị Mai H đã giao nộp: 01 điện thoại kiểu dáng IPHONE XS MAX, màu vàng (gold); số IMEI1: 353107100719182, đã qua sử dụng.

Tại bản kết luận giám định số: 140/KL-KTHS, ngày 25/2/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Yên Bái kết luận: “Toàn bộ số tiền 2.800.000 đồng gửi giám định là tiền do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành.” Mở rộng điều tra xác định ngoài hành vi “Cưỡng đoạt tài sản” đối với chị Nguyễn Thị Mai H như đã nêu trên thì Trần Anh T còn thực hiện hành vi “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” của chị Triệu Thị Ngọc A cụ thể như sau: Ngày 16/01/2022, Trần Anh T sử dụng tài khoản Zalo với tên hiển thị “P T” kết bạn làm quen với chị Triệu Thị Ngọc A qua tài khoản Zalo với tên hiển thị “N A”. Quá trình nhắn tin, trao đổi Tú giới thiệu là người hỗ trợ vay vốn, do chị A đang có nhu cầu cần tiền để làm ăn nên đã yêu cầu được vay với số tiền khoảng 40.000.000 đồng. T yêu cầu để được vay số tiền trên chị A phải tín chấp bằng việc gửi hình ảnh, video cơ thể của chị A trong tình trạng không mặc quần áo, chị A đồng ý và gửi vào tài khoản “P T” nhiều hình ảnh, video khỏa thân của mình. Sau khi nhận được hình ảnh và video, T yêu cầu chị A phải gửi cho T số tiền là 600.000 đồng với lý do số tiền trên là phí chuyển tiền mà người vay phải trả, thông qua hình thức chị A mua thẻ cào nạp tiền điện thoại của nhà mạng Viettel, cào mã thẻ chụp ảnh và gửi vào tài khoản Zalo “P T”. Sau đó, chị A đã chuyển số tiền 600.000 đồng với cách thức như T hướng dẫn. Sau khi nhận mã thẻ cào điện thoại T đã nạp vào số điện thoại “0868.138.898” của bản thân để sử dụng và không chuyển tiền cho chị A vay như đã hứa hẹn, đồng thời T cắt liên lạc, xóa kết bạn Zalo với chị A.

Cáo trạng số 26/CT-VKSTP ngày 13-5-2022, của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái truy tố Trần Anh T về tội “Cưỡng đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 170 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái đề nghị Hội đồng xét xử:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Về hình phạt: Áp dụng khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Xử phạt bị cáo Trần Anh T từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 30-01-2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự, vật chứng và tài sản thu giữ: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai báo thành khẩn, không có ý kiến tranh luận gì và xin được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Yên Bái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa lời khai của Bị cáo và bị hại phù hợp với nhau về: Tài khoản Facebook, tài khoản Zalo do hai bên sử dụng; Số điện thoại liên lạc của chị H. Đồng thời phù hợp với lời các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã đủ cơ sở kết luận: Trần Anh T đã sử dụng số điện thoại 0868138898 tạo lập tài khoản Zalo “P T” để kết bạn với chị Nguyễn Thị Mai H, sau khi có được hình ảnh, video khỏa thân của chị H, Trần Anh T đã thực hiện hành vi dùng hình ảnh, video khỏa thân của chị H để đe dọa, uy hiếp tinh thần chiếm đoạt số tiền 2.800.000 đồng của chị Nguyễn Thị Mai H thì bị phát hiện, bắt giữ. Hành vi do Trần Anh T thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cưỡng đoạt tài sản” nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Yên Bái đã truy tố Trần Anh T về tội danh nêu trên theo quy định tại khoản 1 Điều 170 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, xét thấy: Vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi do bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản hợp pháp của công dân. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, đủ khả năng nhận thức để điều chỉnh mọi hành vi hoạt động của bản thân, nhưng do vụ lợi vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, cần phải có một hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, mới có tác dụng giáo dục, cải tạo riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung.

Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự, để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo khi quyết định hình phạt. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ biên bản xác minh của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái, bị cáo là người không có việc làm ổn định, không có tài sản, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự và vật chứng, tài sản bị thu giữ của vụ án:

Chị Nguyễn Thị Mai H và chị Triệu Thị Ngọc A không yêu cầu T bồi thường số tiền đã chiếm đoạt và không có yêu cầu đề nghị gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đối với chiếc điện thoại di động, kiểu dáng IPHONE XS MAX, màu đen thu giữ của bị cáo. Đây là công cụ, phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách nhà nước.

Đối với những đồ vật, tài sản thu giữ trong vụ án đã được Cơ quan điều tra – Công an thành phố Yên Bái trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp, đúng quy định của pháp luật.

[6] Đối với hành vi Trần Anh T còn chiếm đoạt của chị Triệu Thị Ngọc A số tiền là 600.000đ, việc chị A chuyển tiền cho T là tự nguyện, và tin T làm nghề hỗ trợ tài chính cho vay tiền, việc T cung cấp cho chị A thông tin là người hỗ trợ vay tiền là không đúng sự thật với mục đích chỉ để chị A tin tưởng chuyển tiền. Do số tiền T chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng và bản thân Tú chưa có tiền án, tiền sự về hành vi chiếm đoạt tài sản, nên hành vi này của T không cấu thành tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại điều 174 BLHS. Ngày 20/4/2022, Công an thành phố Yên Bái đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC đối với Trần Anh T về hành vi “Dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản” là phù hợp.

Đối với những hình ảnh, video khỏa thân (không mặc quần áo) của chị Triệu Thị Ngọc A và chị Nguyễn Thị Mai H, T không có hành vi phát tán, truyền bá cho ai khác nên không có cơ sở để xem xét xử lý về hành vi “Truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy” đối với Trần Anh T trong vụ án này.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[8] Bị cáo, bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Anh T phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

2. Về hình phạt: Căn cứ khoản 1 Điều 170; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Anh T 01 (Một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30-01- 2022.

3. Về vật chứng: Căn cứ khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước chiếc điện thoại di động, kiểu dáng IPHONE XS MAX, màu đen.

(Theo biên bản bàn giao giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Yên Bái và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Yên Bái ngày 13-5-2022).

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, giảm, miễn, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Bị cáo Trần Anh T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ; Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

284
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng đoạt tài sản (đe doạ phát tán ảnh khoả thân) số 37/2022/HS-ST

Số hiệu:37/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Yên Bái - Yên Bái
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về