Bản án về tội cưỡng dâm số 82/2020/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 82/2020/HS-PT NGÀY 04/03/2020 VỀ TỘI CƯỠNG DÂM

Ngày 04 tháng 3 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đ xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 36/2020/TLPT-HS ngày 15 tháng 01 năm 2020 đối với bị cáo Nguyễn Thanh L về tội “Cưỡng dâm”, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2019/HS-ST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đ.

* Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thanh L, sinh năm 1997, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi cư trú: Thôn A, xã B, huyện B, tỉnh Quảng Ngãi; nghề nghiệp: Sinh viên; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L (chết) và con bà Phạm Thị L; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/6/2019 cho đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đ. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Huỳnh Ngọc A - Văn phòng Luật sư Q - Đoàn luật sư tỉnh Quảng Ngãi.

Địa chỉ: Số A, thành phố B, tỉnh Quảng Ngãi.

Người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa. Bị cáo đồng ý xét xử vắng mặt người bào chữa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng tháng 8/2018 thông qua mạng xã hội Facebook bị cáo Nguyễn Thanh L kết bạn, làm quen với chị Trần Thị Thu H (Sinh ngày 06/01/2002). Sau một thời gian quen biết, L đề nghị chị H gửi ảnh khỏa thân cho L, ban đầu chị H không đồng ý, L tiếp tục xin nhiều lần, chị H đồng ý và tự chụp ảnh khỏa thân không mặc quần áo gửi cho L. Khi đã có được một số hình ảnh khỏa thân của chị H thì L nảy sinh ý định quan hệ tình dục với chị H. L đã gửi tin nhắn, gọi điện thoại đe dọa buộc chị H phải cho quan hệ tình dục, nếu không L sẽ đăng tải hình ảnh khỏa thuân của chị H lên mạng xã hội. Lo sợ bị ảnh hưởng danh dự nhân phẩm nên chị H miễn cưỡng đồng ý hẹn gặp theo yêu cầu của L. Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 05/01/2019 tại Nhà nghỉ T thuộc tổ dân phố A, phường B, thị xã C, chị H miễn cưỡng quan hệ tình dục với bị cáo L. Ngày 23 - 24/3/2019 tại Nhà nghỉ T thuộc tổ dân phố A, phường B, thị xã C, bị cáo L tiếp tục cưỡng ép đòi quan hệ tình dục với chị H nhưng do chị H đang trong chu kỳ kinh nguyệt nên bị cáo không quan hệ tình dục được. Ngày 01/6/2019 bị cáo L hẹn gặp chị H tại thành phố B, tỉnh Đ để tiếp tục cưỡng ép quan hệ tình dục, tuy nhiên chưa thực hiện được hành vi thì bị Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thị xã B bắt giữ.

Tại Bản kết luận pháp y về tình dục số 654/TD-TTPY ngày 01/6/2019 của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Đ kết luận: Màng trinh dạng răng cưa, giãn rộng, thấy rõ được âm đạo, bờ tự do dày, hồng, bóng; Không phát hiện vết rách, không phát hiện tổn thương.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2019/HSST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đ, đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh L phạm tội “Cưỡng dâm”.

Căn cứ khoản 4 Điều 143; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 02 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 02/6/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo cho bị cáo và các đương sự theo quy định của pháp luật.

Ngày 16/12/2019 bị cáo Nguyễn Thanh L có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo giữ nguyên nội dung kháng cáo.

Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đ đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cưỡng dâm” theo khoản 4 Điều 143 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Hình phạt đã áp dụng đối với bị cáo là phù hợp, tương xứng với tính chất mức độ do hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra; Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận gì thêm, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ căn cứ để kết luận: Bằng thủ đoạn nhắn tin, gọi điện thoại đe dọa nếu không cho quan hệ tình dục thì bị cáo Nguyễn Thanh L sẽ đăng tải hình ảnh khỏa thân của chị Trần Thị Thu H lên mạng xã hội nên vào khoảng 11 giờ 30 phút ngày 05/01/2019 tại Nhà nghỉ T thuộc tổ dân phố A, phường B, thị xã C, chị H phải miễn cưỡng quan hệ tình dục với bị cáo L. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, chị H 16 năm 11 tháng 29 ngày tuổi. Vì vậy, bản án sơ thẩm đã xử phạt bị cáo về tội “Cưỡng dâm” theo quy định tại khoản 4 Điều 143 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh L đề nghị giảm hình phạt đối với bị cáo, thấy rằng: Bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; Có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, sau khi sự việc xảy ra đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, được đại diện hợp pháp bị hại bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo có ông nội là liệt sĩ. Bị cáo tuổi đời còn trẻ, đang theo học tại trường đại học, cơ hội, tương lai đang ở phía trước. Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 02 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc so với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo có cơ hội sửa chữa sai lầm làm lại cuộc đời và cũng thể hiện được chính sách nhân đạo, khoan hồng của Nhà nước.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

[3] Về án phí: Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo Nguyễn Thanh L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh L, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 62/2019/HSST ngày 10/12/2019 của Tòa án nhân dân thị xã B, tỉnh Đ về hình phạt.

Áp dụng khoản 4 Điều 143; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh L 02 (Hai) năm tù về tội “Cưỡng dâm”, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ ngày 02/6/2019.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Bị cáo Nguyễn Thanh L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

70
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cưỡng dâm số 82/2020/HS-PT

Số hiệu:82/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về