Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 49/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 49/2021/HS-ST NGÀY 26/09/2021 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 9 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2021/HSST ngày 06 tháng 7 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2021/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 8 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Tiến D, sinh năm 1997; tại M; Nơi cư trú: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 06/12; Con ông Lê Thanh L và bà Lê Kim L; Bị cáo chưa có vợ và con;

- Tiền án: 01 Ngày 30/5/2018 bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt 01 năm tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Chấp hành xong vào ngày 23/04/2019. (Chưa được xóa án tích)

- Tiền sự: 03

+ Ngày 16/01/2017 bị Công an huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” với số tiền 750.000 đồng (chưa nộp phạt).

+ Ngày 30/11/2020 bị Công an huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Hủy hoại tài sản của người khác” vào ngày 11/03/2020 với số tiền 3.500.000 đồng (chưa nộp phạt).

+ Ngày 04/12/2020 bị Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Hủy hoại tài sản của người khác” 05/11/2020 với số tiền 3.500.000 đồng (chưa nộp phạt) Về nhân thân:

Ngày 22/9/2015 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt sáu tháng tù về tội “ Cố ý làm hư hỏng tài sản” đã chấp hành xong và được xoá án tích.

Bị cáo Lê Tiến D bị bắt tạm giam ngày 12/05/2021 cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

Ngưi bào chữa cho bị cáo Lê Tiến D: Bà Đoàn Thị Ngọc D – Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bến Tre.

- Bị hại: Lê Kim H, sinh năm 1962 (vắng mặt tại phiên toà) Địa chỉ: Ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Lê Tiến D nhiều lần về nhà bà Lê Kim H (cô ruột D) ở ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre quậy phá, đập tài sản, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng 21 giờ 30 phút ngày 19/12/2020, trong lúc Lê Tiến D đang ngồi nhậu một mình tại nhà của bà Lê Kim H vì không có tiền tiêu xài nên D bực tức quay sang quậy phá nhà của bà H, D dùng tay nhặt mảnh vỡ đá hoa cương có sẳn trong nhà rồi ném vào cửa sổ và tủ quần áo làm 01 tấm kính cửa sổ bằng thuỷ tinh, loại 04 ly, kích thước 1,11m x 0,56m và 01 tấm kính tủ quần áo bằng thủy tinh, loại 04 ly, kích thước 1,72m x 0,46m bị hư hỏng. Lúc này bà H vừa đi chơi về tới nhà thấy đồ đạc trong nhà bị hư hỏng nên đã trình báo cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá số 236/KL- HĐĐG ngày 05/02/2021, của Hội đồng định giá huyện C, tỉnh Bến Tre kết luận: 01 (một) tấm kính bằng thuỷ tinh, loại 04 ly, kích thước 1,11m x 0,56m có giá trị là 117.800 đồng;01 (một) tấm kính bằng thủy tinh, loại 04 ly, kích thước 1,72m x 0,46m có giá trị là 150.100 đồng Tổng giá trị tài sản bị hư hỏng là 267.900 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 04 giờ ngày 24/01/2021, sau khi đã có uống rượu, Lê Tiến D đi về nhà Lê Kim H, D cầm lấy cái ghế bằng gỗ (ghế tre) rồi đập vào tấm kính của tủ quần áo bằng thủy tinh, loại 04 ly, kích thước 1,72m x 0,46m trong nhà bà H làm tấm kính tủ quần áo bị hư hỏng. Sau đó, bà H đã trình báo cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá số 239/KL- HĐĐG ngày 05/02/2021, Hội đồng định giá huyện C, tỉnh Bến Tre kết luận: 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh, loại 04 ly, kích thước 1,72m x 0,46m có giá trị là 150.100 đồng.

Vụ thứ ba: Vào khoảng 23 giờ ngày 31/01/2021, sau khi đã có uống rượu, Lê Tiến D đi về nhà Lê Kim H nhặt lấy 01 khúc gỗ rồi đi vào nhà dùng khúc gỗ đập phá làm hư hỏng các bộ phận của tủ nhôm kích thước (170 x 120 x 60)cm, gồm: 02 (hai) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (88 x 56)cm; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (115 x 60)cm; 02 (hai) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (115 x 31)cm; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (115 x 88)cm; 02 (hai) khung bằng kim loại màu trắng (nhôm) kích thước (3 x 3)cm dài 88cm; 02 (hai) khung bằng kim loại màu trắng (nhôm) kích thước (3 x 3)cm dài 115cm; 04 (bốn) khung bằng kim loại màu trắng (nhôm) kích thước (2 x 1)cm dài 60cm và các bộ phận của tủ bằng thủy tinh kích thước (49 x 60 x 40)cm, gồm: 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (35 x 52)cm; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (35 x 44,5)cm; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (44,5 x 51,5)cm; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (51,5 x 28,5)cm. Sau đó, bà H đã trình báo cơ quan Công an.

Tại bản kết luận định giá số 575/KL- HĐĐG ngày 02/4/2021, Hội đồng định giá huyện C, tỉnh Bến Tre kết luận:

- Các bộ phận của tủ nhôm kích thước (170 x 120 x 60)cm, gồm: 02 (hai) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (88 x 56)cm có giá trị là 186.000 đồng; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (115 x 60)cm có giá trị là 123.000 đồng; 02 (hai) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (115 x 31)cm có giá trị là 135.000 đồng; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (115 x 88)cm có giá trị là 192.000 đồng; 02 (hai) khung bằng kim loại màu trắng (nhôm) kích thước (3 x 3)cm dài 88cm có giá trị là 79.000 đồng; 02 (hai) khung bằng kim loại màu trắng (nhôm) kích thước (3 x 3)cm dài 115cm có giá trị là 104.000 đồng; 04 (bốn) khung bằng kim loại màu trắng (nhôm) kích thước (2 x 1)cm dài 60cm có giá trị là 48.000 đồng;

- Các bộ phận của tủ bằng thủy tinh kích thước (49 x 60 x 40)cm, gồm: 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (35 x 52)cm có giá trị là 34.000 đồng; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (35 x 44,5)cm có giá trị là 30.000 đồng; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (44,5 x 51,5)cm có giá trị là 44.000 đồng; 01 (một) tấm kính bằng thủy tinh loại 04 ly kích thước (51,5 x 28,5)cm có giá trị là 29.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị thiệt hại là 1.003.000 đồng.

Vật chứng tạm giữ: 01 mãnh vỡ đá hoa cương hình dạng không xác định kích thước 22 x 17 x 2,5 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 15,5 x 9 x 0,4 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 18,5 x 11,5 x 0,4 cm; 01 cái ghế gỗ tre kích thước 30 x 30 x 30 cm; 01 đoạn gỗ vuông kích thước 4 x 5,3 x 79 cm.

Quá trình điều tra, bà Lê Kim H không yêu cầu bị cáo Lê Tiến D bồi thường số tiền 1.421.000 đồng là giá trị tài sản đã bị hư hỏng.

Cáo trạng số 52/CT-VKSCT ngày 04/7/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện C truy tố bị cáo Lê Tiến D về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lê Tiến D phạm tộiCố ý làm hư hỏng tài sản”. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 178; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017: Xử phạt bị cáo Lê Tiến D từ 12 tháng tù đến 24 tháng tù.

* Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà H không có yêu cầu bị cáo D bồi thường nên ghi nhận.

* Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 mãnh vỡ đá hoa cương hình dạng không xác định kích thước 22 x 17 x 2,5 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 15,5 x 9 x 0,4 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 18,5 x 11,5 x 0,4 cm; 01 cái ghế gỗ tre kích thước 30 x 30 x 30 cm; 01 đoạn gỗ vuông kích thước 4 x 5,3 x 79 cm.

Tại phiên tòa, người bào chữa cho bị cáo trình bày: Thống nhất tội danh và khung hình phạt truy tố của viện kiểm sát đối với bị cáo. Thống nhất các tình tiết giảm nhẹ và mức hình phạt theo đề nghị của Viện kiểm sát. Tuy nhiên xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo do bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội tài sản có giá trị không lớn, từ nhỏ bị cáo đã không được sống chung với cha mẹ thiếu sự quan tâm giáo dục của cha mẹ, bị khuyết tật, dẫn đến tâm lý không ổn định. Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng điểm h,i,s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố, đồng thời nói lời nói sau cùng của bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là phù hợp với các tài liệu thu thập được trong quá trình điều tra, hoàn toàn phù hợp với lời trình bày của bị hại về thời gian, địa điểm cũng như dụng cụ gây án. Do đó Hội đồng xét xử có đủ căn cứ xác định: các ngày 19/12/2020; 24/01/2021 và 31/01/2021 D đã 03 lần đập phá tài sản của bà Lê Kim H ở ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre. Với tổng giá trị tài sản thiệt hại là 1.421.000 đồng.

[3] Bản thân bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Lê Tiến D không chịu cải sửa bản thân mặc dù bản thân đã nhiều lần bị xử lý hành chính về hành vi hủy hoại tài sản của người khác chưa được xóa tiền sự, bị cáo D đã 03 lần đập phá tài sản của bà Lê Kim H ở ấp A, xã B, huyện C, tỉnh Bến Tre. Với tổng giá trị tài sản thiệt hại là 1.421.000 đồng. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Lê Tiến D đã phạm vào tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát là có căn cứ pháp luật, đúng người đúng tội.

[4] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ: Bị cáo phạm tội 02 lần trở lên; tái phạm theo điểm g, h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn; gia đình thuộc diện hộ nghèo; bản thân là người bị khuyết tật; có bác ruột là liệt sĩ; được quy định tại điểm h, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đã phạm tội 02 lần trở lên, đã từng bị kết án chưa được xoá án tích, không phải lần đầu phạm tội, do đó không có cơ sở chấp nhận lời đề nghị của người bào chữa cho bị cáo đối với việc áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ hình phát cho bị cáo.

[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn bị cáo thực hiện, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhân dân. Bị cáo có nhân thân xấu từng bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bến Tre xử phạt về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích và nhiều lần bị xử phạt hành chính. Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của bị hại nên cần thiết phải áp dụng hình phạt tù để cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân lương thiện, có ích cho xã hội và có tác dụng phòng ngừa chung theo quy định tại Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại bà Lê Kim H không có yêu cầu bị cáo Lê Tiến D bồi thường nên ghi nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 mãnh vỡ đá hoa cương hình dạng không xác định kích thước 22 x 17 x 2,5 cm; 01 đoạn gỗ vuông kích thước 4 x 5,3 x 79 cm là công cụ bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 15,5 x 9 x 0,4 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 18,5 x 11,5 x 0,4 cm; 01 cái ghế gỗ tre kích thước 30 x 30 x 30 cm là tài sản của bà H, bà H không yêu cầu nhận lại nên tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo thuộc diện hộ cận nghèo nên được miễn án phí theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 178; điểm g, h khoản 1 Điều 52; điểm h,s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ Luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

Tuyên bố bị cáo Lê Tiến D phạm “Tội cố ý làm hư hỏng tài sản”; Xử phạt bị cáo Lê Tiến D 01(một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2021.

[2] Trách nhiệm dân sự:

Bị hại bà Lê Kim H không có yêu cầu bị cáo Lê Tiến D bồi thường nên ghi nhận.

[3] Căn cứ vào Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

Xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy: 01 mãnh vỡ đá hoa cương hình dạng không xác định kích thước 22 x 17 x 2,5 cm; 01 đoạn gỗ vuông kích thước 4 x 5,3 x 79 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 15,5 x 9 x 0,4 cm; 01 mãnh vỡ thủy tinh hình dạng không xác định kích thước 18,5 x 11,5 x 0,4 cm; 01 cái ghế gỗ tre kích thước 30 x 30 x 30 cm.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện C, tỉnh Bến Tre với Chi cục thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Bến Tre)

[4] Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị án được miễn án phí theo quy định.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị hại vắng mặt tại Toà có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

309
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 49/2021/HS-ST

Số hiệu:49/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:26/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về