Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 160/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 160/2022/HS-ST NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 21tháng 12 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 153 /2022/HSST ngày 24 tháng 11 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 156/2022/HSST-QĐ ngày 01 tháng 12 năm 2022, đối với bị cáo:

Nguyn Văn L, sinh ngày 30/12/1982 tại V; nơi cư trú: Thôn 7, xã K, huyện T, tỉnh V; nghề nghiệp: Tự do; trình độ văn hóa: 2/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn P (đã chết) và bà Phạm Thị H; vợ: Dương Thị H, con: có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại (có mặt).

Bị hại: Anh Nguyễn Văn P, sinh năm 1974; trú tại: Thôn 6, xã K, huyện T, tỉnh V, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 04/7/2022, Nguyễn Văn L điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave BKS: 88K1 - xxxxx đi từ nhà đến thị trấn Đạo Đức, huyện B, tỉnh V để mua thiết bị sửa chữa máy đầm. Sau khi mua xong, L điều khiển xe đi đến phía sau Công ty TNHH C, địa chỉ: Khu công nghiệp B I, huyện B, tỉnh V đứng chờ chị Dương Thị H là vợ L đang làm công nhân của công ty C để về cùng. Đến khoảng 20 giờ 10 phút cùng ngày L thấy chị H điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade BKS: 88K1 - xxxxx đi từ công ty ra đường Quốc lộ 2 đi về hướng TP.Vĩnh Yên nên điều khiển xe đi theo chị H. Khi đi đến khu công nghiệp B I, gần cổng Công ty TNHH B và B Vina, L thấy chị H dừng xe lại và dựng xe ở phía trước xe ô tô nhãn hiệu ISUZU, BKS: 88C - xxxxx do anh Nguyễn Văn P điều khiển đang đỗ ở đó. Sau đó chị H đi đến mở cửa phụ và bước lên cabin xe ô tô, đóng cửa lại. Lúc này, do nghi ngờ chị H có quan hệ với anh P nên L bực tức, dựng xe mô tô của mình ở phía sau xe ô tô, tay cầm mũ bảo hiểm đi đến vị trí cửa phụ bên phải xe ô tô, dùng tay trái mở cửa xe nhưng không được, L dùng mũ bảo hiểm đập 02 phát vào cửa kính – cabin, làm kính bị vỡ thành nhiều mảnh. Thì chị H mở cửa xuống xe rồi điều khiển xe đi về nhà. Lúc này L tiếp tục đi sang cửa bên lái thì anh P mở cửa, xuống xe ( anh P đứng ở vị trí cánh cửa) nói chuyện với L. L và P đứng đối diện với nhau, L dùng mũ bảo hiểm đập 2 phát về phía anh P, anh P tránh được thì mũ bảo hiểm đập trúng vào kính chắn gió bên trái của xe làm kính chắn gió bị vỡ. L và P giằng co với nhau về phía đầu xe ô tô thì L tiếp tục cầm mũ bảo hiểm đập trúng vào kính chắn gió phía trước của xe làm cho kính chắn gió bị nứt, vỡ. P lao vào đẩy và giằng co với L thì mũ bảo hiểm rơi xuống đường. L đẩy anh P ra rồi chạy vào gần khu vực rệ cỏ ven đường nhặt 01 đoạn gỗ dài khoảng 50cm lao vào đánh anh P thì P tránh được. L dùng đoạn gỗ đập vào đầu xe ô tô 2 đến 3 phát nhưng xe không bị hư hỏng gì. Anh P lao vào kéo L ra thì đoạn gỗ rơi xuống đường, L tiếp tục nhặt 01 viên gạch ném về phía xe ô tô của P, P đẩy L ra để L không đập phá xe thì L nói với P “Thôi bỏ ra để tao đi về” sau đó L điều khiển xe mô tô đi về nhà. Tang vật thu giữ: 01 mũ bảo hiểm; 01 đoạn gậy gỗ; 01 can nhựa; 01 viên gạch và 01 xe ô tô BKS: 88C - xxxxx.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 86 ngày 02/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự huyện B, kết luận: Trị giá thiệt hại của tài sản kính chắn gió bên phải trị giá 950.000 đồng; kính chắn gió bên trái trị giá 950.000đ; kính chắn gió phía trước của xe trị giá 1.967.000 đồng. Tổng trị giá tài sản bị thiệt hại là 3.867.000 đồng.

Về xử lý vật chứng và trách nhiệm dân sự:

Đối với 01 xe ô tô BKS: 88C - xxxxx xác định là tài sản hợp pháp của anh Nguyễn Văn P. Ngày 11/8/2022, CQĐT đã trả lại cho anh P chiếc xe ô tô trên.

Sau khi nhận lại tài sản anh P không yêu cầu L phải bồi thường cho anh nhưng L vẫn tự nguyện bồi thường cho anh P số tiền 3.867.000 đồng. Anh P không có yêu cầu gì và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm đối với L.

Đối với 01 mũ bảo hiểm xác định là công cụ L sử dụng để làm hư hỏng tài sản của P; 01 đoạn gậy gỗ; 01 viên gạch do không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 01 can nhựa xác định là tài sản của L không liên quan đến hành vi phạm tội. Ngày 04/11/2022, CQĐT đã trả lại cho L chiếc can trên. Sau khi nhận lại tài sản L không có yêu cầu đề nghị gì.

Tại Cáo trạng số 157/CT-VKSBX ngày 21 tháng 11 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn L về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo khoản 1 Điều 178 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 178, điểm b,i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn L từ 08 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 16 đến 20 tháng.

Bị cáo Nguyễn Văn L thừa nhận toàn bộ hành vi của mình như bản cáo trạng, không bào chữa và tranh luận gì, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn L khai nhận tội phù hợp với lời khai của người bị hại, phù hợp với vật chứng thu được và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 21h10 ngày 04/7/2022, tại cổng Công ty TNHH B và B Vina thuộc khu công nghiệp B I, huyện B tỉnh V Nguyễn Văn L đã có hành vi dùng mũ bảo hiểm đập vỡ kính chắn gió bên phải; kính chắn gió bên trái; kính chắn gió phía trước cabin xe ô tô BKS: 88C - xxxxx của anh Nguyễn Văn P gây thiệt hại về tài sản theo kết luận định giá là 3.867.000 đồng.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn L đã phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 178 của Bộ Luật Hình sự, cụ thể điều luật quy định:

“1) Người nào... cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000đồng ... thì bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 50.000.000đồng; phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm...” Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, làm quần chúng nhân dân hoang mang, lo sợ. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét về nhân thân, tính chất mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 178 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 03 năm tù nên theo quy định tại khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm ít nghiêm trọng. Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt vì chưa có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra và tại phiên tòa thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho người bị hại. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, tại phiên tòa người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng án treo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khác theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng nào, có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy không cần phải bắt bị cáo chấp hành hình phạt tù cho bị cáo hưởng án treo ấn định thời gian thử thách như đại diện Viện kiểm sát đề nghị cũng đủ sức răn đe, cải tạo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 178 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng. Tuy nhiên, quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa xác định bị cáo không có công việc ổn định, điều kiện kinh tế khó khăn nên cần miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì khác nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[5] Về xử lý vật chứng: Cần tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm là công cụ L sử dụng để làm hư hỏng tài sản của P; 01 đoạn gậy gỗ; 01 viên gạch không còn giá trị sử dụng.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn L phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Căn cứ khoản 1 Điều 178, điểm b, i,s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1, 2, 5 Điều 65 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Nguyễn Văn L 09 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01năm 06 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Văn L cho Ủy ban nhân dân xã K, huyện T, tỉnh V giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách của án treo.

Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ khoản 1 Điều 47, Điều 48 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

Tịch thu tiêu hủy 01 mũ bảo hiểm; 01 đoạn gậy gỗ; 01 viên gạch (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 14/12/2022).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án; buộc Nguyễn Văn L phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm;

Bị cáo, bị hại có mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

55
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 160/2022/HS-ST

Số hiệu:160/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về