Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 02/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH HƯNG, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 04/01/2024 VỀ TỘI CỐ Ý LÀM HƯ HỎNG TÀI SẢN

Ngày 04 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 43/2023/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 38/2023/QĐXXST - HS ngày 20 tháng 12 năm 2023 đối với:

- Bị cáo Trần Văn Tuấn E, sinh ngày 20/11/1983; tại V, Long An; Nơi cư trú: Ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Long An; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn T và bà Phạm Thị Cẩm T1; có vợ Lê Thị H và 01 con; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/8/2008, bị Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An xử phạt 01 năm tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 02 năm về tội “Hủy hoại và cố ý làm hư hỏng tài sản”; Ngày 27/9/2011, bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt 02 năm về tội “Cố ý gây thương tích”; Ngày 24/6/2015, bị Tòa án nhân dân tỉnh Long An xử phạt 09 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú ( có mặt ).

- Bị hại:

1. Anh Lê Thanh T2, sinh năm: 1979 (có mặt).

2. Anh Huỳnh Chí L, sinh năm: 1987 (có mặt).

3. Bà Lê Thị T3, sinh năm: 1968 (vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Long An.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Trần Thị Phương T4, sinh năm: 1980; Địa chỉ: Ấp B, xã V, huyện V, tỉnh Long An ( có mặt)

- Người làm chứng:

1. Chị Phạm Thị D ( vắng mặt).

2. Anh Huỳnh Tý H1 ( vắng mặt).

3. Anh Lê Văn Bình E1 ( có mặt).

4. Anh Trần Văn Tuấn A (có mặt).

5. Chị Nguyễn Thị N (vắng mặt).

6. Anh Ngô Văn T5 (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ 15 phút ngày 25/3/2023, Huỳnh Chí L, sinh năm 1987, đánh nhau với Trần Văn T6 Em, sinh ngày 20/11/1983, tại nhà ông Đỗ Văn T7 ở Ấp B, xã V, huyện V, được mọi người can ngăn nên cả hai đi về. Khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, Tuấn E cầm 01 con dao loại sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày, đi đến nhà của bà Lê Thị T3, địa chỉ: Ấp B, xã V, để tìm đánh L (con bà T3) nhưng không gặp. Tuấn E dùng chân đá vào cửa nhôm gắn kính làm bể kính, biến dạng thanh nhôm (móp) cửa nhà bà T3. Biết L thuê nhà chỗ khác, Tuấn E đi tìm, trên đường đi Tuấn E đã vứt bỏ con dao. Khi đến nhà của anh Lê Thanh T2 ngụ cùng ấp, Tuấn E nghĩ là nhà của L thuê ở nên dùng chân đạp nhiều lần vào cửa kéo Đài Loan loại 02 cánh nhà anh T2 làm cửa bị cong, móp, méo. Lúc này Tuấn E nói “L ơi, mày chạy ra đây”. Anh T8 ra mở cửa thì thấy Tuấn E đứng trước nhà, anh T8 nói “Nhà này là của tao chứ L nào”. Tuấn E biết là nhầm nhà nên xin lỗi anh T8. Tuấn E đi đến nhà L thuê ở cạnh nhà anh T8. Cửa nhà L là loại cửa kéo Đài Loan 02 cánh đang đóng. T8 Em dùng chân đạp nhiều lần vào cửa làm cửa bị hư hỏng, móp, méo. Khi được người dân trình báo, Công an xã mời Tuấn E về làm việc.

Bản kết luận định giá tài sản số: 46/KL-HĐĐG ngày 19/04/2023, của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự huyện V đã kết luận giá trị đối với tài sản bị thiệt hại, tại thời điểm xảy ra vụ việc ngày 25/03/2023 như sau:

- 01 cánh cửa nhôm có kích thước 2,36m x 0,99m; phần kính là loại kính thường, có bông, dày 3mm có kích thước 1,4m x 0,87m, bị bể (vỡ); phần nhôm bị móp có kích thước 0,02m x 0,01m, thiệt hại có giá trị thành tiền là 600.000 đồng.

- 01 cửa sắt kéo Đài Loan có kích thước 2,64m x 3,5m, cánh cửa bên phải bị móp có kích thước 0,9m x 0,3m, cánh cửa trái bị móp có kích thước 0,6m x 0,17m, thiệt hại có giá trị thành tiền là 1.450.000 đồng.

- 01 cửa sắt kéo Đài Loan có kích thước 2,86m x 2,2m, cánh cửa bên trái bị móp có kích thước 0,15m x 0,08m, cánh cửa bên phải bị móp có kích thước 0,72m x 1,4m, thiệt hại có giá trị thành tiền là 1.033.000 đồng.

Tổng cộng, giá trị thiệt hại thành tiền là 3.083.000 đồng.

Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tiến hành thu thập chứng cứ và khởi tố vụ án, khởi tố bị can và tiến hành việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật: Đối với 01 con dao của Trần Văn T6 Em sử dụng đi tìm L sau đó vứt bỏ, cơ quan điều tra truy tìm nhưng không thu hồi được.

Tại Bản cáo trạng số 01/CT-VKSVH ngày 11/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng đã truy tố Trần Văn T6 Em về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Trần Văn Tuấn E thừa nhận hành vi phạm tội đúng với nội dung của bản cáo trạng truy tố. Bị cáo không có khiếu nại về hành vi của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng.

Những người bị hại xác định Trần Văn T6 Em đã làm hư hỏng tài sản, được chị Trần Thị Phương T4 là chị ruột của bị cáo bồi thường toàn bộ, nay không có yêu cầu bồi thường bổ sung.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Trần Phương T4 trình bày: Sau khi Trần Văn T6 Em vi phạm pháp luật gia đình đã bồi thường cho chị T3 số tiền 650.000 đồng; bồi thường cho anh T6 số tiền 1.450.000 đồng; bồi thường cho anh L số tiền 1.033.000 đồng. Nay không có ý kiến đối với số tiền bồi thường, xin xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Tuấn E.

Những người làm chứng khai tại phiên tòa và có trong hồ sơ vụ án đã xác định Trần Văn T6 Em là người đã gây hư hỏng tài sản cho bà T3, anh T6 và anh L. Nay Tòa án xét xử là đúng người.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật, đồng thời phân tích đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Trần Văn Tuấn E. Đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Trần Văn T6 Em phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 178, Điều 38, 50, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt Trần Văn T6 Em từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Về bồi thường thiệt hại: Giữa bị cáo và các bị hại đã thỏa thuận bồi thường xong. Nay các bị hại không yêu cầu bổ sung nên không đề cập xem xét.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, tỏ thái độ ăn năn hối cải; các bị hại đề nghị giải quyết theo quy định pháp luật. Bị cáo không có ý kiến tranh luận, bị cáo nói lời sau cùng xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có cơ hội sửa chữa làm công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện V, của Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng và của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được thực hiện hợp pháp.

[2] Bị hại Lê Thị T3 vắng mặt nhưng không gây trở ngại cho việc xét xử. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử theo quy định tại Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về hành vi đối với bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Tuấn E đã thừa nhận hành vi phạm tội đúng theo nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Vĩnh Hưng, tỉnh Long An truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo Tuấn E phù hợp với lời khai của những người bị hại và các tài liệu khác, đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 25/3/2023, tại ấp B, xã V, huyện V. Trần Văn T6 Em dùng chân đá, đạp vào cửa nhà của bà Lê Thị T3, anh Lê Thanh T2 và anh Huỳnh Chí L đã làm hư hỏng tài sản được định giá giá trị thiệt hại thành tiền là 3.083.000 đồng. Như vậy, đủ căn cứ kết luận Trần Văn T6 Em phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 178 Bộ luật Hình sự.

Điều 178 Bộ luật Hình sự quy định: Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

[4] Tính chất phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo thực hiện với lỗi cố ý, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Đồng thời, gây mất an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải có một hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo Tuấn E để giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[5] Bị cáo Tuấn E không có tình tiết tăng nặng. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo được gia đình tự nguyện bồi thường cho những bị hại số tiền 3.133.000 đồng, bị cáo có ông nội là liệt sỹ. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ, gây thiệt hại có giá trị thành tiền không lớn, nên áp dụng hình phạt tiền cũng có thể răn đe, giáo dục bị cáo để bị cáo có cơ hội khắc phục sửa chữa lỗi lầm.

[6] Về bồi thường thiệt hại: Những người bị hại đã nhận đủ số tiền của gia đình bị cáo đã bồi thường. Nay những người bị hại không có yêu cầu bổ sung nên không đề cập xem xét.

[7] Về hình phạt bổ sung: Do hình phạt chính là hình phạt tiền nên không áp dụng hình phạt bổ sung [8] Về vấn đề liên quan vụ án:

[8.1] Chị Trần Thị Phương T4 là chị ruột của bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho những bị hại số tiền 3.133.000 đồng. Nay không có ý kiến nên không đề cập.

[8.2] Việc bị cáo Trần Văn Tuấn E khai bị Huỳnh Chí L dùng cây đánh gây thương tích. Khi có đơn yêu cầu giải quyết sẽ được Cơ quan điều tra thụ lý bằng vụ án khác, không đề cập trong vụ án này.

[8.3] Đối với hành vi của Trần Văn Tuấn A khi được nghe Trần Văn T6 Em nói bị Huỳnh Chí L đánh và cầm dao đi tìm L, Tuấn A có cầm cây nhưng nửa đường vứt bỏ và không có tham gia cùng Tuấn E gây thiệt hại tài sản cho người khác nên Cơ quan điều tra không xử lý là có căn cứ.

[9] Về vật chứng vụ án: Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện V tổ chức truy tìm con dao nhưng không tìm được. Nay không đề cập.

[10] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Quốc Hội.

Bị cáo Trần Văn T6 Em phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

[11] Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa trình bày luận tội và đề nghị kết tội đối với bị cáo là có căn cứ, được Hội đồng xét xử chấp nhận. Kiểm sát viên đề nghị áp dụng hình phạt tù đối với bị cáo là quá nghiêm khắc, Hội đồng xét xử chuyển sang áp dụng là hình phạt tiền.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 178, Điều 35, 50, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Căn cứ vào khoản 2 Điều 136, Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Căn cứ vào khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Trần Văn T6 Em phạm tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Văn T6 Em số tiền 20.000.000 đồng.

3. Về án phí: Bị cáo Trần Văn T6 Em phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý làm hư hỏng tài sản số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:04/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về