Bản án về tội cố ý gây thương tích số 97/2020/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 97/2020/HS-PT NGÀY 02/12/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 02 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 88/2020/TLPT-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 do có kháng cáo của bị hại Trần Gia P đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 88/2020/HS-ST ngày 23 tháng 9 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng.

Bị cáo không kháng cáo:

Trần Văn M, sinh ngày 20 tháng 7 năm 1971 tại thành phố Hải Phòng; đăng ký thường trú: Thôn A, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi đang sinh sống: Thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Nguyễn Thi N (đều đã chết), có vợ là Bùi Thị T sinh năm 1968 và 03 con, con lớn sinh năm 1990 con nhỏ sinh năm 1997; tiền án, tiền sự: Không; bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 13/12/2019, có mặt.

Tô Văn L, sinh ngày 04 tháng 5 năm 1987 tại thành phố Hải Phòng; đăng ký thường trú: Thôn 1, xã H, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi đang sinh sống: Thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Tô Văn P sinh năm 1946 và bà Vũ Thị L (đã chết), có vợ là Trần Thị T sinh năm 1990 và 02 con, con lớn sinh năm 2010, con nhỏ sinh năm 2012; tiền án, tiền sự: Không; bị cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/9/2019; có mặt.

Bị hại có kháng cáo:

Anh Trần Gia P, sinh ngày 12 tháng 8 năm 1997; đăng ký thường trú: Thôn A, xã A, huyện T, thành phố Hải Phòng; nơi đang sinh sống Thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nhà bị cáo Trần Văn M và nhà anh Trần Gia P ở cạnh nhau. Sáng sớm ngày 14/02/2019, anh P làm nghề lái xe taxi đã đỗ xe ô tô trước khu vực cổng phụ nhà bị cáo M. Đến 06 giờ, vợ bị cáo M là bà Bùi Thị L (sinh năm 1968, địa chỉ Thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng) sang nhà anh P gọi để anh P chuyển xe ra chỗ khác cho thuận tiện việc đi lại. Bố đẻ của anh P là ông Trần Văn C (sinh năm 1969, địa chỉ Thôn T, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng) đi ra chỗ xe ô tô thì gặp M, hai bên đã có lời qua tiếng lại, xảy ra xô xát. Pt từ trong nhà chạy ra đã cùng với ông C đuổi đánh M. Cùng lúc đó Tô Văn L điều khiển xe mô tô chở theo vợ là chị Trần Thị T(sinh năm 1990, địa chỉ Thôn Ti, xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng) đi qua. Chị T là cháu gái, bị cáo L là cháu rể của bị cáo M. Thấy M bị anh P và ông C đuổi chạy vào trong nhà, L đã chạy vào dùng mũ bảo hiểm đánh vào đầu anh P. Do sân trơn, anh P bị ngã ra sân nhà bị cáo M. Anh P vơ nhặt được một con dao rựa mũi vuông thì L đã giật được con dao chém vào đỉnh đầu P gây chảy máu. Bị cáo M cầm một thanh sắt hình chữ V dài khoảng 60cm đánh vào người anh P. Ông C chạy về nhà lấy một con dao quắm, dài khoảng 80cm chạy sang nhà M. Khi thấy ông C cầm dao quắm thì chị T giữ, giằng được con dao và ném con dao xuống mương nước trước cổng nhà M. Chị T can ngăn, anh P và ông C đã ra khỏi sân nhà M. Anh P được mọi người đưa đến bệnh viện đa khoa T.

Bệnh án của Bệnh viện đa khoa T cho kết quả chụp X-quang của anh P hồi 09 giờ 54 phút ngày 14/2/2019 xác định: Không gãy, vỡ xương họp sọ; CT sọ não bình thường.

Kết quả chụp CT xương sọ của anh P tại Bệnh viện Việt Tiệp vào các ngày 06/3/2019 và ngày 12/3/2019 (do lỗi kỹ thuật nên hình ảnh phim không ghi ngày) có nêu: Tại phần ghi kết quả khám bệnh thì bác sĩ có nhận định phim chụp X-quang sọ nghiêng của Bệnh viện đa khoa T không đủ tiêu chuẩn để đáng giá và nhận định phim chụp CT não của anh P tại Bệnh viện đa khoa T có “hình ảnh tụ máu phần mềm ở thái dương trái và có hình ảnh đường vỡ xương ở xương thái dương trái, kết luận hình ảnh vỡ xương thái dương trái/ không tụ máu nội sọ”.

Kết luận giám định pháp y số 105/2019/TgT ngày 19/3/2019 của Trung tâm Giám định pháp y Hải Phòng: Trần Gia P bị 02 vết thương gồm vết thương rách da, không tổn thương xương sọ và chấn thương vùng thái dương trái gây xưng nề phần mềm, vỡ xương sọ thái dương trái, không tổn thương nội sọ. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của chấn thương gây vết thương rách da vùng đỉnh chẩm gây nên là 01%, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do chấn thương vỡ xương thái dương trái gây nên là 11%. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của nạn nhân do các thương tích gây nên là 12%. Vết thương rách da vùng đỉnh chẩm có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên. Chấn thương vỡ xương thái dương trái có đặc điểm do vật tày tác động trực tiếp gây nên.

Không tin vào kết quả giám định trên, ngày 27/3/2019, bị cáo M có đơn đề nghị giám định lại thương tích của anh P tại Viện khoa học hình sự Bộ Công an. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định lại.

Kết luận giám định pháp y thương tích số 2019/C09-TT1 ngày 04/5/2019 của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an: Trần Gia P bị chấn thương sọ não đã được điều trị ổn định, sẹo vùng giữa đỉnh không ảnh hưởng chức năng, vùng thái dương trái, mặt, cổ phải không có dấu vết thương tích; không vỡ xương hộp sọ, không có di chứng chấn thương sọ não. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sẹo vùng giữa đỉnh của Trần Gia P tại thời điểm giám định lại là 02%. Tổn thương vùng đỉnh đầu do vật có cạnh gây nên.

Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Minh Thông, Chủ tịch Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam có ý kiến: Chụp cắt lớp vi tính dựng 3D và hội chẩn đọc phim không thấy hình ảnh đường nứt xương hộp sọ vùng thái dương trái, không thấy tổn thương nội sọ (Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 2019/C09-TT1 ngày 04/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an).

Viện khoa học hình sự Bộ Công an có ý kiến: Tại thời điểm giám định,Trần Gia P được chụp cắt lớp vi tính sọ não dựng 3D hộp sọ để đánh giá chi tiết hộp sọ; không thấy hình ảnh đường vỡ xương hộp sọ tại vùng thái dương trái của anh Trần Gia P. Trong khoảng thời gian từ 28/2/2019 đến 18/4/2019, nếu anh P bị tổn thương vỡ, rạn xương sọ thì không thể can liền hoàn toàn (Công văn số 1399/C09-TT1 ngày 19/7/2019).

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 88/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 của Tòa án nhân dân huyện T đã:

- Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với hai bị cáo Tô Văn L và Trần Văn M; áp dụng bổ sung khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Tô Văn L Xử phạt bị cáo Tô Văn L 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý gây thương tích, thời gian thử thách là 30 tháng kể từ ngày tuyên án.

Xử phạt bị cáo Trần Văn M 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý gây thương tích, thời gian thử thách là 24 tháng kể từ ngày tuyên án.

- Căn cứ các điều 584, 587 và 590 của Bộ luật Dân sự, Bị cáo Tô Văn L và bị cáo Trần Văn M có nghĩa vụ liên đới bồi thường cho anh Trần Gia P số tiền 30.576.000 đồng.

Ngày 04/10/2020, bị hại Trần Gia P có đơn kháng cáo đề nghị tăng hình phạt, tăng mức bồi thường đối với các bị cáo Trần Văn M và Tô Văn L.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Bị cáo Tô Văn L khai nhận: Do bị cáo nhìn thấy bị hại P và ông C (bố bị hại) đang tấn công cậu vợ bị cáo (bị cáo M) nên khi đang chở vợ về qua đó bị cáo xông vào với mục đích can ngăn và bênh bị cáo M. Bị cáo đã dùng mũ bảo hiểm đập về phía anh P. Bị hại P đã vơ được con dao rựa ở sân và chém bị cáo nhưng bị cáo đã giằng được và chém về phía anh P, không may trúng vào đầu anh P. Bị cáo không có mâu thuẫn gì với bị hại P trước đó. Bị cáo đã nhận thức được hành vi của mình là không đúng nên sau khi xảy ra sự việc đã đến nhà bị hại xin lỗi bị hại, tại phiên tòa sơ thẩm cũng đã xin lỗi bị hại. Và tại phiên tòa hôm nay, một lần nữa bị cáo lại xin lỗi bị hại và mong muốn bị hại bỏ qua.

Bị cáo Trần Văn M khai nhận: Anh P làm nghề lái xe taxi có để xe ở cổng phụ nhà tôi, sáng ra vợ tôi có đề nghị anh P đánh xe ra chỗ khác để tiện việc đi lại thì bố anh P (ông Chuyển) có lời qua tiếng lại; ông Chuyển có gọi anh P ra, sau đó ông Chuyển và anh P có đuổi đánh tôi. Cùng lúc đó thì vợ chồng cháu gái tôi là T (chồng T là L) có đi về, L vào can ngăn hai bố con ông Chuyển nhưng anh P đã vơ được con dao ở sân nhà tôi để chém tôi và L nhưng Lại đã giằng được con dao và chém lại về phía P, không may dao trúng vào đầu làm chảy máu. Ông C chạy về nhà lấy 01 con dao quắm chạy sang nhưng T đã căn ngăn, giằng dao và đẩy ông C về nhà, đóng cổng nhà tôi lại. Sau khi sự việc xảy ra tôi cũng thấy cả hai bên đều nóng nảy nên sự việc mới xảy ra như vậy. Bị cáo L chỉ vì thấy bố con anh P tấn công tôi nên có vào can ngăn, bênh vực tôi. Đây cũng là bài học để rút kinh nghiệm cho tôi và bị cáo L.Tôi và L đã sang nhà anh P xin lỗi bố con anh P và mong hai bên thông cảm vì là hàng xóm láng giềng. Và tại phiên tòa hôm nay tôi cũng một lần nữa xin lỗi bố con anh P; về chi phí điều trị thương tích tôi và L sẽ bồi thường đầy đủ theo yêu cầu của anh P. Tôi và bị cáo L mỗi người đã nộp 05 triệu đồng vào Chi cục Thi hành án dân sự huyện T. Sau khi Tòa án quyết định mức bồi thường chúng tôi sẽ bồi thường đủ cho anh P.

Bị hại Trần Gia P khai nhận: Không có ý kiến gì về lời khai của các bị cáo Lại, M tại phiên tòa. Bị hại Trần Gia P nhận lời xin lỗi của các bị cáo và rút kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường đối với các bị cáo Trần Văn M và Tô Văn L. Tuy nhiên, bị hại cho rằng bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 2019/C09-TT1 ngày 04/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an đã kết luận bị cáo bị tổn thương cơ thể 2% là không đảm bảo khách quan. Vì vậy, bị hại vẫn giữ nguyên kháng cáo đề nghị tăng mức hình phạt đối với các bị cáo Trần Văn M và Tô Văn L. Bị hại không đưa ra được chứng cứ, đồ vật, tài liệu nào chứng minh cho quan điểm của mình về sự không khách quan của Kết luận giám định pháp y về thương tích của Viện khoa học hình sự Bộ công an. Bị hại không đồng ý giám định lại lần II vì bị hại nghĩ thời gian đã lâu vết thương đã hồi phục nhiều nên giám định lại sẽ không chính xác. Bị hại không có ý kiến gì đối với ý kiến của bác sỹ Bùi Hoàng Tú – Trưởng khoa chẩn đoán hình ảnh của bệnh viện Việt Tiệp Hải Phòng. Bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét sự việc một cách khách quan đối với bản kết luận giám định của Viện khoa học hình sự Bộ Công an.

* Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau:

- Về việc đề nghị tăng hình phạt: Bị cáo M là người có mâu thuẫn và đánh nhau với người bị hại trước, còn bị cáo L không có mâu thuẫn với người bị hại từ trước, đi ngang qua thấy bị cáo M đang đánh nhau, đã vào bênh bị cáo L đánh người bị hại, nên cần đánh giá là đồng phạm giản đơn, không có bàn bạc, tổ chức từ trước, cả 2 bị cáo đều là người thực hành nhưng thương tích của anh P do bị cáo Lại dùng dao gây ra nên có trách nhiệm cao hơn. Căn cứ các tình tiết giảm nhẹ TNHS, nhân thân và vai trò các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo và tuyên phạt bị cáo Tô Văn L 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, bị cáo Trần Văn M 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo đề nghị tăng mức hình phạt của bị hại Trần Gia P.

- Về việc bồi thường: Bị hại đã tự nguyện rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo về bồi thường dân sự nên Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu kháng cáo về phần trách nhiệm dân sự của bị hại.

- Về những thiếu sót của bản án sơ thẩm: Bản án sơ thẩm không áp dụng Điều 17 Bộ luật Hình sự trong vụ án đồng phạm là có thiếu sót. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn nhầm lẫn trong việc bồi thường dân sự dẫn đến nhầm lần trong việc tính toán số tiền án phí dân sự sơ thẩm, đề nghị Hội đồng xét xử sửa bản án sơ thẩm về vấn đề này.

Từ những phân tích đánh giá ở trên, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm a, b, đ khoản 1 Điều 355; Điều 356; khoản 3 Điều 357; Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị hại là anh Trần Gia P yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo Trần Văn M và Tô Văn L. Sửa một phần bản án sơ thẩm về trách nhiệm dân sự và án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Căn cứ lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai tại giai đoạn sơ thẩm, lời khai của bị hại, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Sáng ngày 14/02/2019, các bị cáo Tô Văn L và Trần Văn M đã có hành vi dùng mũ bảo hiểm đập, dùng dao chém và dùng thanh sắt hình chữ V dài khoảng 60m gây thương tích cho anh Trần Gia P . Vì vậy, đủ cơ sở kết luận các bị cáo Tô Văn L và Trần Văn M đồng phạm tội “Cố ý gây thương tích” vi phạm Điều 134 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, với thương tích của anh Trần Gia P hiện có 02 bản kết luận giám định pháp y về thương tích đối với anh Trần Gia P, cụ thể: Bản kết luận giám định pháp y số 105/2019/TgT ngày 19/3/2019 của Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận: Hình ảnh vỡ xương thái dương trái; xác định tỷ lệ tổn thương của thể của anh P là 12%. Và Bản kết luận giám định pháp y thương tích số 2019/C09-TT1 ngày 04/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an giám định lại thương tích cho nạn nhân Trần Gia P kết quả không thấy hình ảnh vỡ xương hộp sọ vùng thái dương trái, không thấy tổn thương nội sọ và xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh P là 02%. Xét sự khác nhau về kết luận của 02 bản kết luận giám định pháp y nêu trên thấy:

[2] Bác sỹ Hoàng Văn Thế, Trưởng khoa chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Đa khoa T có ý kiến về phim chụp cắt lớp sọ Trần Gia P ngày 14/02/2019: Không thấy hình ảnh thay đổi tỷ trọng trong nhu mô não ở tầng dưới lều và trên lều: các não thất không giãn, cân đối hai bên, dịch trong não đồng nhất; đường giữa không di lệch, không thấy tổn thương xương và xoang; không thấy bất thường các thành trong hốc mắt. Chụp CT não hiện bình thường. Bác sỹ Bùi Hoàng Tú, Trưởng khoa chẩn đoán hình ảnh của Bệnh viện Hữu Nghị Việt Tiệp có ý kiến: “Trong quá trình ông đọc phim chụp căt lớp vi tính của Trần Gia P có phần vội vàng, có thể nhầm lẫn...” [3] Tại Công văn số 1399/C09-TT1 ngày 19/7/2019 về việc giải thích kết luận giám định của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an đã khẳng định: “ không thấy hình ảnh đường vỡ xương hộp sọ tại vùng thái dương trái của anh Trần Gia P. Trong khoảng thời gian từ 28/02/2019 đến 18/4/2019, nếu anh Trần Gia P bị tổn thương vỡ, rạn xương sọ thì không thể can liền hoàn toàn”.

[4] Tại Biên bản Hội chẩn kết quả chụp phim CT sọ não bệnh nhân Trần Gia P ngày 05/12/2019, Phó giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hiền, Phó Trưởng khoa chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện Bạch Mai có ý kiến: “... Trên bệnh nhân có sự mất cân xứng của hệ xương thái dương và hệ khớp thái dương – chấm hai bên nên việc xác định đường sáng này là tổn thương hay bất thường giải phẫu là rất khó” .

[5] Tại Công văn số 137/2019/CV ngày 12/12/2019 của Trung tâm pháp y thành phố Hải Phòng đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra cho nạn nhân Trần Gia P giám định lại lần II thành lập Hội đồng cấp Trung ương để xác định rõ xem xương sọ của nạn nhân có bị vỡ hay không và lấy kết quả giám định lại lần II để giải quyết là chính xác nhất. Quyết định số 2636/QĐ-BYT ngày 24/06/2009 của Bộ Y Tế về việc Thành lập Hội đồng giám định lại lần II xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân Trần Gia P. Tuy nhiên, nạn nhân Trần Gia P từ chối, không hợp tác nên việc giám định lại II tại Hội đồng cấp Trung ương không thực hiện được.

[6] Công văn giải thích kết luận giám định của Viện Khoa học Hình sự Bộ Công an phù hợp với ý kiến của các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh, Điện quang và y học hạt nhân tại Việt Nam (Phó Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Xuân Hiền, Phó Trưởng khoa chẩn đoán hình ảnh bệnh viện Bạch Mai; Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Minh Thông, Chủ tịch Hội Điện quang và Y học hạt nhân Việt Nam) và phù hợp với Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 2019/ C09-TT1 ngày 04/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an.

[7] Với các phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy: Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 2019/ C09-TT1 ngày 04/5/2019 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an đã kết luận “Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Trần Gia P là 02%” hoàn toàn có cơ sở, phù hợp với thực tế khách quan của vụ án. Như vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Tô Văn L, Trần Văn M về tội “Cố ý gây thương tích” với tình tiết định khung “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ.

[8] Tính chất của vụ án là ít nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe của người khác đã được pháp luật ghi nhận bảo vệ.

Xét kháng cáo của bị hại đề nghị tăng hình phạt đối với các bị cáo Trần Văn M và Tô Văn L:

[9] Các bị cáo Tô Văn L và Trần Văn M nhân thân đều chưa có tiền án tiền sự. Mỗi bị cáo đã nộp vào chi cục Thi hành án 5.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho bị hại. Các bị cáo đều lần đầu phạm tội và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Quá trình điều tra truy tố và xét xử sơ thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Tô Văn L có bố để là người tham gia kháng chiến chống Mỹ và được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng ba nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Căn cứ tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo và tuyên phạt bị cáo Tô Văn L 15 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, bị cáo Trần Văn M 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo là phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo đề nghị tăng mức hình phạt của bị hại Trần Gia P.

[10] Đối với kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường của bị hại Trần Gia P: Tại phiên tòa phúc thẩm, anh Trần Gia P đã tự nguyện rút kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường. Hội đồng xét xử xét thấy việc rút kháng cáo của anh Trần Gia P là hoàn toàn tự nguyện và không liên quan đến phần kháng cáo khác nên căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ đối với kháng cáo yêu cầu tăng mức bồi thường của bị hại Trần Gia P.

Xét những sai sót trong bản án sơ thẩm:

[11] Tại phần nhận định của bản án có nêu: “bị cáo Tô Văn L phải bồi thường 18.000.000 đồng, bị cáo Trần Văn M phải bồi thường 12.576.000 đồng”. Tuy nhiên phần Quyết định bản án lại nêu: “Bị cáo Trần Văn M có nghĩa vụ bồi thường cho anh Trần Gia P số tiền 12.576.000 đồng, trừ đi số tiền 5.000.000 đồng bị cáo đã tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T (biên lại thu tiền số 0000880 ngày 07/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T), bị cáo Tô Văn L còn phải bồi thường cho anh Trần Gia P số tiền 7.576.000 đồng”. Từ đó bản án sơ thẩm quyết định số tiền án phí dân sự các bị cáo phải nộp như sau: Bị cáo Tô Văn L phải trả 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 378.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm. Bị cáo Trần Văn M phải trả 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 650.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

[12] Bị cáo Tô Văn L phải bồi thường cao hơn bị cáo Trần Văn M, tuy nhiên bản án sơ thẩm lại buộc bị cáo Tô Văn L đóng tiền án phí dân sự sơ thẩm thấp hơn Trần Văn M là không hợp lý. Xét thấy đây là sai sót nhầm lẫn trong việc tính toán số liệu nên cần phải sửa bản án về nội dung này nhằm đảm bảo quyền lợi của các bị cáo.

[13] Từ những phân tích đánh giá nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo đề nghị tăng hình phạt của bị hại Trần Gia P đối với các bị cáo; đình chỉ giải quyết đối với phần kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường của bị hại; sửa một phần bản án sơ thẩm về bồi thường dân sự và án phí dân sự.

[14] Về án phí: Vụ án được khởi tố theo yêu cầu của bị hại, sau khi xét xử sơ thẩm bị hại có kháng cáo nhưng không được Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận. Do đó, căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ- UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, buộc bị hại là anh Trần Gia P phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự phúc thẩm.

[15] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015: Không chấp nhận kháng cáo của bị hại là anh Trần Gia P yêu cầu tăng hình phạt đối với các bị cáo. Giữ nguyên mức hình phạt của các bị cáo tại bản án sơ thẩm.

Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, Điều 58, Điều 65; Điều 17 của Bộ luật Hình sự đối với hai bị cáo Tô Văn L và Trần Văn M; áp dụng bổ sung khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Tô Văn L:

Xử phạt bị cáo Tô Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý gây thương tích, thời gian thử thách là 30 (Ba mươi) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Trần Văn M 12 (Mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội Cố ý gây thương tích, thời gian thử thách là 24 (Hai mươi tư) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Tô Văn L và bị cáo Trần Văn M cho Ủy ban nhân dân xã T, huyện T, thành phố Hải Phòng giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì được thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, khoản 3 Điều 357 sửa một phần bản án sơ thẩm về phần trách nhiệm dân sự và án phí dân sự sơ thẩm như sau:

Bị cáo Trần Văn M có nghĩa vụ bồi thường cho anh Trần Gia P số tiền 12.576.000 (Mười hai triệu năm trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng, trừ đi số tiền 5.000.000 (Năm triệu) đồng bị cáo đã tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện T (biên lại thu tiền số 0000880 ngày 07/9/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T), bị cáo Trần Văn M còn phải bồi thường cho anh Trần Gia P số tiền 7.576.000 (Bảy triệu năm trăm bảy mươi sáu nghìn) đồng.

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án, Bị cáo Trần Văn M phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 378.000 (Ba trăm bảy mươi tám nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Bị cáo Tô Văn L phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 650.000 (Sáu trăm năm mươi nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm.

3. Căn cứ Điều 348; điểm đ khoản 1 Điều 355 Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo đề nghị tăng mức bồi thường của bị hại Trần Gia P.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị hại Trần Gia P phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của Bản án số 88/2020/HS-ST ngày 23/9/2020 của Toà án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 97/2020/HS-PT

Số hiệu:97/2020/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về