Bản án về tội cố ý gây thương tích số 94/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 94/2022/HS-PT NGÀY 03/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 3/8/2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 21/2020/TLPT-HS ngày 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 73/2022/QĐXXP-HS ngày 03/6/2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 40/2022 ngày 13/6/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Quốc T; sinh ngày 20/11/1989; sinh quán: Xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; trú quán: Xóm Phố Cường, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Quốc T (đã chết) và bà Đường Thị S, sinh năm 1952; có vợ Nguyễn Thị H, sinh năm 1990 và con 02 đứa con, lớn 05 tuổi, nhỏ 02 tuổi; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 02/01/2022 cho đến nay; có mặt.

- Bị hại: Anh Nguyễn Quốc H, sinh năm 1972; địa chỉ: Xóm Phố Cường, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; có mặt.

Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Nguyễn Văn Ng, ông Nguyễn Xuân HLuật sư Công ty Luật và TN Đại Huệ- thuộc đoàn Luật sư tỉnh Nghệ An; có mặt.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1952( có mặt); Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1983, có mặt; Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1975 vắng mặt; Anh Nguyễn Đình Kh, sinh năm 1990 ( có mặt) Bà Phạm Thị Hoài Th, sinh năm 1973(vắng mặt); đều trú tại: Xóm Ph, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh. Có mặt.

- Người làm chứng:

+ Bà Đường Thị S, sinh năm 1952 (có mặt); Bà Trần Thị S, sinh năm 1969 ( có mặt); Anh Nguyễn Văn Ph, sinh năm 1979, vắng mặt; Ông Lê Tiến D, sinh năm 1953 vắng mặt; Anh Nguyễn Xuân Ngh, sinh năm 1981, có mặt; Ông Nguyễn Phi H, sinh năm 1950, vắng mặt; Bà Phan Thị , sinh năm 1958 vắng mặt; Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1978, ( có mặt) Đều có địa chỉ tại: Xóm Phố Cường, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

+ Ông Phan Văn H, sinh năm 1955; địa chỉ: Xóm Ph, xã G, huyện H, tỉnh Hà Tĩnh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 22 giờ ngày 02/02/2020 tại xóm Ph, xã G, huyện H, do cho rằng gia đình anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1978 chăn nuôi lợn đã xả thải gây ô nhiễm môi trường Nguyễn Thị H, sinh năm 1983, Đường Thị S, sinh năm 1952, Nguyễn Đình Kh, sinh năm 1990, Trần Thị S, sinh năm 1969 và một số người dân cùng trú tại xóm Phố Cường tụ tập ngoài nhà anh Hiệp để phản đối. Lúc này anh Hiệp gọi điện báo cho anh trai là Nguyễn Quốc H, sinh năm 1972, trú cùng thôn đến để giúp đỡ. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, anh H điều khiển xe mô tô đi đến nhà anh H nhưng không ai mở cửa nên H quay đầu xe mô tô để đi về, cùng thời điểm này Nguyễn Quốc T, sinh năm 1989 đi chơi về thấy ồn ào nên cũng lên chỗ nhà anh H để xem sự việc như thế nào, khi anh H quay xe về thì gặp T trên đường, do cho rằng anh H có liên quan đến việc gia đình anh H xả thải gây ô nhiễm môi trường nên T dùng tay chặn trước đầu xe mô tô anh H để nói chuyện thì anh H6 bỏ xe chạy bộ về hướng đường huyện lộ 6 rồi vào nhà anh Nguyễn Văn Kh, sinh năm 1951 là chú ruột của H. Nguyễn Quốc T chạy đuổi theo vào trong nhà ông Kh. Tại nhà ông Kh khi anh Nguyễn Quốc H đang ngồi tại ghế cạnh bàn uống nước giữa sân thì T đi lại bể nước cạnh sân lấy một chiếc rựa mồng, tiến về phía anh H rồi trở sống rựa đánh một phát từ trên xuống, anh H dơ tay lên đỡ nên trúng vào cẳng tay trái của anh H. Sau khi đánh anh H, đặt rựa lên thành bể nước rồi đi về nhà. Còn anh H được em trai là anh Nguyễn Xuân Ngh, sinh năm 1981 đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hà Tĩnh từ ngày 03/02/2020 đến ngày 10/02/2020 thì ra viện. Bị cáo Nguyễn Quốc T sau khi có Kết luận điều tra thì đã trốn khỏi địa phương, đến ngày 02/01/2022 bị cáo mới ra đầu thú.

Theo kết luận giám định số 26/TgT ngày 23/3/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Tĩnh kết luận: Dấu hiệu chính qua giám định.

- Chấn động não điều trị ổn định. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 5% - Gãy 1/3 trên xương trụ trái đã can. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là: 10% - Sẹo vết thương 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái. Tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.

- Đa xây xát phần mềm, chấn thương lưng không để lại sẹo tích và di chứng.

Áp dụng theo phương pháp cộng lùi. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại 15%. Thương tích ở đầu do vật tày gây nên, thương tích ở cẳng tay trái do vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên.

Ngày 25/5/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện H ban hành văn bản số 75/CSĐT về việc phối hợp cung cấp thông tin để yêu cầu Trung tâm giám định pháp y tỉnh Hà Tĩnh xác định tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của Nguyễn Quốc H ở tay trái cụ thể là bao nhiêu phần trăm, gồm: Vết thương gãy 1/3 xương trụ cẳng tay trái đã can, tỷ lệ tổn thương do thương tích gây nên hiện tại là 10%, Sẹo vết thương 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái kích thước 1,6cm x 0,5cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 01%.

Ngày 17/6/2020 Trung tâm giám định pháp y tỉnh Hà Tĩnh ban hành văn bản số 121/TTPY & GĐYK trả lời như sau: Gãy 1/3 trên xương trụ cẳng tay trái đã can, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 10%, sẹo vết thương 1/3 trên mặt sau cẳng tay trái kích thước 1,6cm x 0,5cm, tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%. Áp dụng phương pháp cộng lùi, tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 10,9%, làm tròn là 11%.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Quốc H yêu cầu bị cáo Nguyễn Quốc T phải bồi thường tổng số tiền 142.481.559đ, gồm các khoản: Chi phí điều trị:

5.751.859đ; Chi phí đi giám định vào ngày 18/3/2020: Phí giám định 680.000đ, viện phí 129.700đ, lệ phí 120.000đ, tiền thuê xe 800.000đ; Tiền thu nhập của bị hại bị mất do nằm viện: 08 ngày x 300.000đ/ngày = 2.400.000đ; Tiền công của người chăm sóc (Chị Phạm Thị Hoài Th, vợ anh H): 08 ngày x 300.000đ/ngày = 2.400.000đ; Tiền thuê xe khi đi bệnh viện và khi ra viện: 02 lượt x 800.000đ = 1.600.000đ; Tiền mua thuốc tại Nga Lộc 4 lần: 400.000đ và tiền thuê xe đi: 4 lần x 800.000đ/lần = 3.200.000đ; Tiền thu nhập bị mất sau khi ra viện: 5 tháng x 9.000.000đ/tháng = 45.000.000đ; Tiền bồi thường tinh thần do sức khỏe bị xâm hại: 50 tháng x 1.600.000đ/tháng = 80.000.000đ.

Tại bản án số 10/2022 ngày 24-3-2022 TAND huyện đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Điều 48 Bộ luật Hình sự; các Điều 584, 585, 586, 590, 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự. Điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1, 3 Điều 21; điểm a, c khoản 1 Điều 23; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội Cố ý gây thương tích.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/01/2022.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Quốc H tổng số tiền là 38.981.000đ.

Ngày 1/4/2022 người bị hại anh Nguyễn Quốc H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm và đề nghị tòa phúc thẩm tuyên hủy án sơ thảm chuyển hồ sơ vụ án để điều tra xét xử lại do có nhiều thiếu sót vi phạm thủ tục tố tụng, còn nhiều tình tiết chưa làm rõ hành vi của các đối tượng khác, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm Tại phiên tòa phúc thẩm người bị hại vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp hợp pháp cho bị hại đề nghị HĐXX làm rõ các tình tiết như kháng cáo của bị hại và vẫn đề nghị HĐXX tuyên hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ điều tra bổ sung.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355 BLTTHS không chấp nhận nội dung kháng cáo của người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 30 tháng tù; buộc bị cáo bồi thường cho bị hại số tiền 38.981.000đ; đồng thời đề nghị xử lý nghĩa vụ chịu án phí theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Kháng cáo của người bị hại trong hạn luật định nên được chấp nhận xem xét. Các hành vi, quyết định tố tụng khác của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Tại phiên tòa lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm. Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án được xem xét công khai tại phiên tòa, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định: Tối ngày 02/02/2020 sau khi đi chơi về thì nghe những người dân xung quanh nhà anh Nguyễn Xuân H đang tụ tập, chửi bới, phản đối về việc chăn nuôi của anh Hiệp gây ô nhiễm môi trường thì Nguyễn Quốc T đi bộ tới nhà anh H, sau đó T gặp anh Nguyễn Quốc H điều khiển xe mô tô từ phía cổng nhà anh H đi về, T cho rằng anh H cũng tham gia vào việc xả thải vì anh Hợi làm trong trang trại của anh Hiệp nên T đã chặn xe anh H lại để nói chuyện. Khi bị Tình chặn xe lại thì anh Hợi thả xe mô tô và bỏ chạy vào nhà ông Nguyễn Văn Kh thì Tình đuổi theo. Khi vào nhà ông Kh, thấy H đang ngồi ở ghế ở giữa sân thì T đi lại khu vực bể nước nhà ông Kh lấy chiếc rựa mồng dài 65cm để trên bể nước trở song rựa đánh anh H một cái, anh H dơ tay trái lên đỡ thì trúng vào cẳng tay trái bị chảy máu. Hậu quả anh H bị thương ở cẳng tay trái tỷ lệ thương tích là 11%.

Nguyễn Quốc T có đủ năng lực TNHS và thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý. Bị cáo sử dụng rựa mồng có phần lưỡi bằng sắt gây thương tích là thuộc trường hợp “Dùng hung khí nguy hiểm” quy định tại điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự và hậu quả gây tổn thương cơ thể cho bị hại là 11%, do vậy bản án hình sự sơ thẩm số 10/2022 ngày 24-3-2022 của TAND huyện H đã căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS xét xử bị cáo về tội “ Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật. Bị cáo không kháng cáo về tội danh cũng như hình phạt của bản án sơ thẩm.

[3]. Xét kháng cáo của người bị hại HĐXX nhận thấy:

Vào tối ngày 02/02/2020 khi nhóm người gồm Nguyễn Đình Kh, Nguyễn Thị H, Đường Thị S, Trần Thị S và những người khác chửi bới để phản đối việc anh Nguyễn Xuân H xả thải gây ô nhiễm môi trường thì bị cáo Nguyễn Quốc T không tham gia. Sau khi đi chơi về nghe ồn ào ở phía nhà anh H nên T mới có mặt. Như vậy, có thể khẳng định rằng giữa nhóm của Kh, H và những người khác với bị cáo T trước đó không có sự bàn bạc, thống nhất gì trong việc tụ tập chửi bới, phản đối việc anh H xả thải gây ô nhiếm môi trường. Người bị hại kháng cáo cho rằng giữa bị cáo và những người này có sự liên kết bàn bạc thống nhất vì vậy họ là đồng phạm với bị cáo là không có căn cứ. Mặt khác, xét hành vi cụ thể của từng người, thể hiện:

- Đối với Nguyễn Thị H (là anh em con gì với bị hại H): H chỉ thừa nhận là có tham gia vào việc chửi bới để phản đối việc anh Hiệp xả thải gây ô nhiễm, nhưng không có việc hô “Bắt lại” và những người làm chứng có mặt tại hiện trường không ai nghe H hô “Bắt lại”. Nếu thực sự H có hô “Bắt lại” thì cũng không có căn cứ xác định Huấn nói với ai và bắt ai và trước đó giữa bị cáo Tình và Huấn hoàn toàn không có sự bàn bạc, thống nhất trong việc gây ra thương tích cho Hợi hay cho ai cả, suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T đều khai nhận việc bị cáo gây thương tích cho người bị hại đều xuất phát từ ý chí của bị cáo không bị ai tác động.

- Đối với Nguyễn Đình Kh (anh em con chú với bị hại H): Kh thừa nhận có hô “Đập, đập” nhưng không có dụng ý là hô đập anh Hợi, mà mục đích là nói đập hệ thống chuồng lợn của anh H. Việc Kh thừa nhận có hô “Đập, đập” là hoàn toàn phù hợp với video do anh Nguyễn Văn H ghi lại và nộp cho cơ quan điều tra (trong giây thứ 2 và thứ 3 của Clip có thể hiện có người hô câu này (BL 206)) đã được cấp sơ thẩm làm rõ nhưng rõ ràng tiếng hô này không thể hiện tác động đến cho ai và đập ai, đập cái gì. Về phía bị cáo T thì trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo T đều khai nhận không nghe thấy Kh nói gì và cũng không tiếp nhận ý chí từ ai trong việc chặn H lại, hay gây thương tích cho H mà hoàn toàn xuất phát từ ý chí cá nhân.

- Đối với Nguyễn Văn T theo diễn biến có tại hồ sơ vụ án: T khai khi nghe ồn ào ở phía nhà anh H thì T có đi lên để xem xét, khi đi có mang theo một chiếc gậy dâu, nhưng không có việc T đánh Hợi, chiếc gây dâu sau đó T đã vứt lại bên đường. Quá trình điều tra mặc dù đã áp dụng đầy đủ biện pháp điều tra nhưng Cơ quan điều tra không thu giữ được chiếc gậy dâu, do vậy không có đủ căn cứ để xác định T mang theo là gậy dâu hay là típ sắt như lời khai của bị hại cũng như của người làm chứng anh Nguyễn Xuân Ngh, ông Lê Tiến D. Việc T cầm theo gậy dâu hay típ sắt thì cũng không làm ảnh hưởng đến nội dung vụ án, vì toàn bộ những người làm chứng có mặt tại hiện trường đều không ai nhìn thấy T đánh H, bản thân bị hại H quá trình điều tra cũng xác định không trực tiếp thấy T đánh vì bị đánh từ phía sau, khi H quay lại thì chỉ nhìn thấy T dơ típ lên nên phán đoán là T đánh H, chỉ tại phiên tòa thì H mới khẳng định là trực tiếp nhìn thấy T đánh, mặt khác quá trình giám định thương tích của anh H thì vùng lưng không có sẹo tích và di chứng để lại. Bị cáo T trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa đều khai nhận không nhìn thấy T đánh H, bị cáo cũng không tiếp nhận ý chí hay xúi dục, kích động từ T đề dẫn tới hành vi gây thương tích cho bị hại. Do vậy, chỉ căn cứ vào lời khai của bị hại H thì không đủ căn cứ để khẳng định vào tối ngày 02/02/2020 T có hành vi đánh vào vùng lưng của anh H, để xem xét vai trò đồng phạm trong vụ án.

- Đối với Nguyễn Văn Kh (chú ruột của bị hại H):Tại phiên tòa sơ và phúc thẩm ông Kh không thừa nhận việc mình nói “Loại mày là thằng đầu sọ, đập cho hắn chết i” mà chỉ thừa nhận có nói câu: “ mi là thằng đầu têu” rồi bỏ ra ngoài chứ không cổ xúy kích động bị cáo. Thực tế trong đêm đó ông Kh không tham gia vào việc chửi bới, phản đổi việc nhà anh Hiệp xả thải gây ô nhiễm, và khi ông Kh đang ở nhà thì Hợi là người chủ động chạy vào nhà ông Kh, trong số những người làm chứng có mặt tại sân nhà ông Kh thì chỉ có Nguyễn Xuân Ngh (em trai của anh Hợi) là khai nhận có nghe ông Kh nói câu “Loại mày là thằng đầu sọ, đập cho hắn chết i”, còn những người khác không ai nghe thấy. Bị cáo T khai nhận khi vào sân nhà ông Kh thì thấy H đang ngồi trên ghế ở giữa sân và thấy chiếc rựa mồng ở trên bể nước ở gần đó nên đã đi lại lấy rựa và đánh H một cái, T hoàn toàn không nghe ông Kh hay bất cứ ai ở khu vực sân kích động hay xúi dục gì, khi trở sống rựa đánh một cái xong thì anh Hợi vẫn ngồi tại ghế ở sân nhà ông Kh, còn T thì đi về nhà.

Như vậy xét lời khai của H, Kh, ường và ông Kh, lời khai của bị cáo T, lời khai của những người làm chứng, diễn biến sự việc dẫn tới hành vi khách quan, ý chí chủ quan của bị cáo, thì không có căn cứ để xem xét vai trò đồng phạm trong vụ án của H, Kh, T và ông Kh như ý kiến của bị hại và quan điểm của Luật sư bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho bị hại.

Kết quả giám định đã xác định được bị hại Nguyễn Quốc H có vết thương chấn động não với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 5%. Anh H khai sau khi thả xe mô tô bỏ chạy vào nhà ông Nguyễn Văn Kh thì bị đối tượng nào đó đánh vào đầu. Tuy nhiên, quá trình điều tra Cơ quan điều tra không xác định được đối tượng nào đánh vào đầu anh H, không nhân chứng nào nhìn thấy, bản thân anh Nguyễn Quốc H cũng không xác định được ai là người đánh mình nên không đủ căn cứ để xem xét xử lý.

Liên quan đến việc chửi bới của chị H, bà S, bà S đối với anh H thì quá trình điều tra Cơ quan điều tra xét thấy hành vi này chưa đến mức phải xử lý hình sự nên đã Quyết định xử phạt hành chính đối với những người này là hoàn toàn phù hợp và có căn cứ.

Về hành vi đập phá tài sản của anh Nguyễn Xuân H, nội dung này theo Kết luận điều tra thì hiện nay Công an huyện H đang tiếp tục tiến hành điều tra, xác minh ở một vụ việc khác theo quy định của pháp luật. Nên chưa có căn cứ xem xét xử lý, giải quyết trong vụ án này.

Về nội dung kháng cáo tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết con thương binh cho bị cáo là không có căn cứ, qua nghiên cứu tài liệu trong hồ sơ tại bút lục số 66a có tài liệu là bản sao chụp thẻ thương binh của ông Nguyễn Quốc T là bố đẻ của bị cáo Nguyễn Quốc T, vì vậy cấp sơ thẩm cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ TNHS bị cáo là con thương binh theo khoản 2 Điều 51 BLHS là đúng quy định.

Từ những phân tích và nhận định trên HĐXX xét thấy kháng cáo của người bị hại và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại về việc đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm, trả hồ sơ điều tra bổ sung là không có căn cứ chấp nhận.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Án sơ thẩm đã tuyên buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 38.981.000đ, mặc dù bị cáo kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm nhưng phần nội dung cụ thể không đề nghị xem xét về phần bồi thường dân sự song xét thấy đối với các chi phí cụ thể cấp sơ thẩm đã xem xét đầy đủ và có căn cứ, đúng quy định pháp luật cho nên cấp phúc thẩm giữ nguyên nội dung về trách nhiệm dân sự của án sơ thẩm.

[5] Xử lý vật chứng: 01 chiếc rựa mồng dài 65cm, phần cán hình trụ dài 38cm, đường kính 03cm, phần lưỡi làm bằng kim loại màu đen dài 27cm, bị cáo lấy tại nhà ông Nguyễn Văn Kh gây thương tích là vật chứng vụ án không còn giá trị và ông Kh không yêu cầu nhận lại, do đó cần tịch thu và tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Người bị hại không phải chịu án phí HSPT

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 BLTTHS: Không chấp nhận nội dung kháng cáo của người bị hại - anh Nguyễn Quốc H. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 10/2022/HS-ST ngày 24-3-2022 của TAND huyện H, tỉnh Hà Tĩnh.

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 48 Bộ luật Hình sự. Các Điều 584, 585, 586, 590, 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự. Điểm c khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự. Khoản 1, 3 Điều 21; điểm a, c khoản 1 Điều 23; khoản 4 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 30 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 02/01/2022.

3. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Nguyễn Quốc T bồi thường cho bị hại anh Nguyễn Quốc H tổng số tiền là 38.981.000đ.

Kể từ ngày bị hại anh Nguyễn Quốc H có đơn yêu cầu thi hành án thì bị cáo phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án và người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về án phí: Người bị hại có kháng cáo không phải chịu án phí HSPT.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày tuyên án sơ thẩm Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 94/2022/HS-PT

Số hiệu:94/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về