TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 90/2023/HS-PT NGÀY 07/12/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 05 và ngày 07 tháng 12 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Q mở phiên tòa phúc thẩm công khai xét xử vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 77/2023/TTPT-HS ngày 15 tháng 9 năm 2023, do cố kháng cáo của bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2023/HS-ST ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q.
Các bị cáo bị kháng cáo:
1. Nguyễn Hữu C; tên gọi khác: không: giới tính: Nam; sinh ngày 22/01/1989,tại thị xã Q, tỉnh Q; nơi thường trú: khu A, phường H, thị xã Q, tỉnh Q; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: lớp 03/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Nguyễn Hừu H và bà Nguyễn Thị D; vợ Trần Thị Đ; bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2013, con nhỏ sinh năm 2020; tiền án: chưa có; tiền sự: ngày 05/10/2022, bị Công an thị xã Q, tỉnh Q xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Cố ý gây thương tích”; nhân thân: ngày 17/8/2016, bị Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, tỉnh Q xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 07/3/2023, hiện tại ngoại; có mặt.
2. Hà Văn H1; tên gọi khác: không; giới tính: Nam; sinh ngày 22/4/1998, tại thành phố H, tỉnh Q; nơi thường trú: thôn C, xã T, thành phố H, tỉnh Q; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: lớp 12/12; nghề nghiệp: lao động tự do; con ông Hà Văn H2 và bà Nguyễn Thị H3; vợ: Đàm Thị Khánh L (đã ly hôn); bị cáo chưa có con; tiền án, tiền sự: chưa có; bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và Tạm hoãn xuất cảnh từ ngày 07/3/2023, hiện tại ngoại; có mặt.
- Bị hại kháng cáo: anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1983; nơi cư trú: Khu C, phường H, thị xã Q, tỉnh Q; có mặt tại phiên tòa ngày 05/12/2023; vắng mặt tại phiên tòa ngày 07/12/2023.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 10/2022, anh Nguyễn Hữu T có cầm cố chiếc xe mô tô của mình cho Nguyễn Hữu C, khi cầm cố xe, anh T có để chiếc kính mắt trong cốp xe. Đến tháng 12/2022 anh T chuộc lại xe, kiểm tra trong cốp xe bị mất chiếc kính mắt nên anh T đã yêu cầu C trả lại chiếc kính trên. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/01/2023, C gọi điện thoại cho anh T để trả chiếc kính mắt, anh T đồng ý hẹn gặp C ở đoạn đường khu vực B thuộc khu B, phường H, thị xã Q để nhận kính. Trước khi đi gặp anh T, tại nhà C có Hà Văn H1 và anh Nguyễn Xuân TI (sinh năm 1999, trú tại thôn X, xã T, thành phố H) đang ngồi chơi nên C đưa kính cho H1 rủ cả hai đi trả kính cùng C. Sau đó anh T1 điều khiển xe mô tô chở C, H1 đi đến khu vực B thì đã thấy anh T đang đứng đợi sẵn ở đó. C, H1 xuống xe đi đến chỗ anh T đang đứng, H1 đưa kính cho anh T và nói “đây kính của ông thì trả ông chứ ai thèm lấy” thì anh T chửi lại nhóm C rồi dùng tay phải đấm 01 phát vào mặt C, thấy vậy H1 đấm 01 phát vào mặt anh T, anh T bỏ chạy thì C, H1 đuổi theo. Khi anh T chạy được khoảng 17 mét vào trong khu vực sân nhà chị Nguyễn Thị T2 thì bị H1 đuổi giữ được, C lấy 01 con dao (dạng dao gấp dài khoảng 15cm, lưỡi dao bằng kim loại một cạnh sắc, mũi dao nhọn) ở trong túi xách Công đeo và cầm bằng tay phải đâm 04 - 05 nhát trúng vào vùng vai, lưng, hông anh T gây thương tích; còn H1 trong lúc ôm giữ anh T cũng bị C vô ý đâm gây thương tích nhẹ ở vùng mu 02 bàn tay. Khi được mọi người can ngăn, C vứt dao lại hiện trường rồi cùng H1 bỏ đi, anh T được mọi người đưa đi cấp cứu.
Cơ quan điều tra đã thu giữ 01 bộ quần áo màu rằn ri (trong đó trên chiếc áo khoác có một số vết rách và bám dính chất màu nâu đỏ nghi là máu) do anh T giao nộp đồng thời truy tìm con dao trên nhưng không thu giữ được.
Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 115/TgT ngày 21/02/2023, của Trung tâm pháp y tỉnh Q kết luận thương tích của anh Nguyễn Hữu T như sau: Sẹo vết thương phần mềm vùng lưng bên phải kích thước (KT) (0,5 x 0,2)cm, sẹo vết thương phần mềm vùng bả vai trái KT (3,5 x 0,2)cm, sẹo vết thương phần mềm vùng hông bên phải KT (1,2 x 0,2)cm và hông bên trái phía trên mào chậu KT (02 x 0,2)cm, vết thương thượng bì da để lại vết biến đổi rối loạn sắc tố da nằm dọc vùng lưng bên phải ngang D1 đến D4 KT (10,5 x 0,2)cm. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể là 04% sức khoẻ, các tổn thương trên do vật sắc nhọn, có một lưỡi sắc tác động trực tiếp gây nên.
Sau khi xảy ra vụ việc, người bị hại anh Nguyễn Hữu T có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, xử lý Nguyễn Hữu C, Hà Văn H1 về hành vi gây thương tích cho anh.
* Lời khai của bị hại anh Nguyễn Hữu T khai: Trước đó khoảng tháng 10/2022, anh có cầm cố chiếc xe mô tô của mình cho Nguyễn Hữu C, khi cầm cố xe, anh có để chiếc kính mắt trong cốp xe. Đến tháng 12/2022 anh chuộc lại xe, kiểm tra trong cốp xe bị mất chiếc kính mắt nên anh đã yêu cầu C trả lại chiếc kính trên. Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 29/01/2023, C gọi điện thoại cho anh để trả chiếc kính mắt, anh đồng ý hẹn gặp C ở đoạn đường khu vực B thuộc khu B, phường H, thị xã Q để nhận kính. Anh đang đứng, H1 đưa kính cho anh và nói “đây kính của ông thì trả ông chứ ai thèm lấy” thì anh chửi lại nhóm C rồi dùng tay phải đấm 01 nhát vào mặt C, thấy vậy HI đấm 01 nhát vào mặt anh, anh bỏ chạy thì C, H1 đuổi theo. Anh thấy C lấy 01 con dao (dạng dao gấp dài khoảng 15cm, lưỡi dao bằng kim loại một cạnh sắc, mũi dao nhọn) ở trong túi xách Công đeo. Khi anh chạy được khoảng 17 mét vào trong khu vực sân nhà chị Nguyễn Thị T2 thì bị H1 đuổi giữ được, C cầm dao bằng tay phải đâm 04 - 05 nhát trúng vào vùng vai, lưng, hông anh gây thương tích. Sau đó mọi người can ngăn và đưa anh đi cấp cứu.
Anh cho biết sau khi bị C và H1 gây thương tích anh bị tổn hại 04% sức khỏe và phải điều trị tại bệnh viện và chi phí cho việc điều trị vết thương hết số tiền 175.000.000 đồng gồm các khoản sau: Thanh toán tại trung tâm y tế thị xã Q số tiền 1.105.612 đồng; thanh toán hóa đơn tại bệnh viện B số tiền 9.025.116 đồng, chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe là 45.000.000 đồng, chi phí thu nhập bị mất của người chăm sóc 30.000.000 đồng, chi phí bù đắp tổn thất tinh thần 90.000.000 đồng.
*Người làm chứng anh Phạm Văn H4 có lời khai: khoảng 19 giờ, ngày 29/01/2023, anh đang ở nhà thuộc Khu B, phường H, thị xã Q, tỉnh Q thì nghe có tiếng ồn ào phía nhà chị Nguyễn Thị T2 là hàng xóm có mấy thanh niên đang đánh nhau, thấy vậy anh chạy sang nhà chị T2 thì thấy Nguyễn Hữu T và Nguyễn Hữu C và 01 thanh niên anh không quen biết là bạn của C, lúc này anh thấy người thanh niên này đang ôm anh T để cho C cầm 01 con dao đâm vào người anh T, thấy vậy anh xông vào can ngăn không cho C và T đánh nhau nữa, mọi người hàng xóm cũng vào can ngăn không cho C và người thanh niên kia đánh anh T nữa. Sau khi được can ngăn không đánh nhau nữa, lúc này anh H4 thấy anh T cởi áo khoác rằn ri ra có những vết thương hở do dao của C đâm chảy máu ở vùng lưng và hai bên phía sườn.
- Người làm chứng chị Nguyễn Thị T2, anh Bùi Huy C1 có lời khai: khoảng 19 giờ, ngày 29/01/2023, anh chị đang ở nhà thuộc Khu B, phường H, thị xã Q, tỉnh Q thì nghe có tiếng ồn ào đánh nhau ở dưới sân nhà. Lúc này anh, chị mở cửa ra xem thì thấy có khoảng 3 đến 4 người đang đánh nhau ở trong sân nhà anh chị. Lúc này anh, chị thấy có anh H4 là hàng xóm đang xông vào giằng 01 con dao từ tay 01 người thanh niên, lúc này có 01 thanh niên bị chảy máu ở lòng bàn tay trái và người thanh niên lúc đầu cầm dao chạy vào nhà anh, chị để trốn. Sau đó, nam thanh niên bị thương tích ở tay có nhờ chị T2 băng bó vết thương và mọi người không còn đánh nhau nữa. Anh, chị thấy Nguyễn Hữu T là hàng xóm bị thương tích ở vùng lưng chảy nhiều máu, mọi người băng bó cho T và đưa T đi bệnh viện.
Bản cáo trạng số 47/CT-VKSQY ngày 24/5/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Q truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Văn H1 về tội “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.
Với nội dung trên, tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2023/HS-ST, ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Q, xử phạt: bị cáo Nguyễn Hữu C 09 (chín) tháng tù, về tội: “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: bị cáo Hà Văn H1 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Cố ý gây thương tích”, theo điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Trách nhiệm dân sự: buộc bị cáo Nguyễn Hữu C, Hà Văn H1 phải bồi thường cho anh Nguyễn Hữu T mỗi bị cáo 14.800.364 đồng (mười bốn triệu, tám trăm nghìn, ba trăm sáu mươi bốn đồng). Ngoài ra bản án còn tuyên nghĩa vụ án phí, vật chứng, quyền yêu cầu thi hành án, quyền kháng cáo.
Kháng cáo: ngày 31/7/2023, bị hại anh Nguyễn Hữu T kháng cáo nội dung cấp sơ thẩm tuyên án không đúng tội danh, đề nghị: xử Nguyễn Hữu C, Hà Văn H1 về tội: “Giết người”, theo khoản 1 Điều 123 BLHS; buộc các bị cáo liên đới bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật; bỏ lọt tội phạm- đối tượng lái xe Nguyễn Xuân T1 tiếp sức cho C, H1 với vai trò đồng phạm.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại giữ nguyên nội dung kháng cáo.
Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q: Quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Văn H1 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, xét lời khai của các bị cáo phù hợp lời khai bị hại, biên bản hiện trường, lời khai người làm chứng cùng các tài liệu có trong hồ sơ. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo phạm tội: “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội và xử bị cáo C 09 tháng tù và bị cáo H1 06 tháng tù, là tương xứng hành vi phạm tội của các bị cáo.
Quá trình giải quyết vụ án đến nay, các bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Văn H1 thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Q đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ bản án hình sự sơ thẩm.
Các bị cáo không tranh luận với kết luận của Viện kiểm sát.
Lời nói sau cùng, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Đơn kháng cáo của bị hại anh Nguyễn Hữu T làm trong hạn luật định và đúng theo thủ tục quy định nên được xem xét giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Về nội dung vụ án: Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, các bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Văn H1 khai nhận: Khoảng 20 giờ 00 phút, ngày 29/01/2023, tại Khu B, phường H, thị xã Q, tỉnh Q, do mâu thuẫn trong sinh hoạt nên Nguyễn Hữu C và Hà Văn H1 có hành vi dùng tay, chân và dùng 01 (một) con dao đâm vào lưng, vai, hông anh Nguyễn Hữu T gây thương tích, tổn hại 04% (bốn phần trăm) sức khỏe, cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Nguyễn Hữu C và Hà Văn H1, về tội: “Cố ý gây thương tích”, theo quy định tại các điểm a, i khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự, là có căn cứ, đúng người, đúng tội và xử bị cáo Nguyễn Hữu C 09 tháng tù và Hà Văn H1 06 tháng tù, là tương xứng hành vi phạm tội của các bị cáo.
[3] Xét kháng cáo của bị hại đề nghị xử Nguyễn Hữu C, Hà Văn H1 về tội: “Giết người” theo khoản 1 Điều 122 của Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử thấy:
Lúc đầu các bị cáo đến gặp bị hại chỉ có mục đích để trả kính cho bị hại chứ không phải có mục đích nhằm gây thương tích cho bị hại từ trước, hơn nữa bị hại lại là người dùng tay đánh bị cáo C trước; bị cáo C dùng dao đâm vào vùng lưng, hông của bị hại sẽ không gây nguy hiểm đến tính mạng mà chỉ nhằm mục đích gây thương tích cho bị hại. Do đó, kháng cáo của bị hại phải xử lý C, H1 tội “Giết người” là không có căn cứ.
Thứ hai, buộc các bị cáo liên đới bồi thường dân sự theo quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử, thấy: cấp sơ thẩm đã tuyên buộc các bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại 29.600.728 đồng, gồm các khoản viện phí, chi phí điều trị, tiền chi phí bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe, thu nhập bị mất trong thời gian điều trị, bù đắp tổn thất tinh thần là có căn cứ, bị hại không kháng cáo tăng hay giảm bồi thường nên không xét.
Thứ ba, bỏ lọt tội phạm, đối tượng lái xe Nguyễn Xuân T1 tiếp sức cho C, H1 với vai trò đồng phạm. Hội đồng xét xử, thấy: các tài liệu trong hồ sơ thể hiện Nguyễn Xuân T1 được C nhờ chờ xe để C và H1 đi trả kính cho anh T, không được bàn bạc và bản thân anh T1 không tham gia, nên anh T1 không phải là đồng phạm trong vụ án.
Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2023/HS-ST, ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q.
[4] Về án phí: bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng Hình sự;
Không chấp nhận kháng cáo của bị hại Nguyễn Hữu T: giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 60/2023/HS-ST, ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Q.
1- Hình phạt:
Căn cứ: các điểm a, i khoản 1 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: Nguyễn Hữu C 09 (chín) tháng tù, về tội: “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
Căn cứ: các điểm a, i khoản 1 Điều 134; các điểm i, s khoản 1, Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt: H (sáu) tháng tù, về tội: “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
2- Trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự, các Điều 584, 585, 586, Điều 590 và khoản 2 Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự, Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.
Buộc bị cáo Hà Văn H1 phải bồi thường cho anh Nguyễn Hữu T số tiền 14.800.364 đồng (mười bốn triệu, tám trăm nghìn, ba trăm sáu mươi bốn đồng). Bị cáo Nguyễn Hữu C phải bồi thường cho anh Nguyễn Hữu T số tiền 14.800.364 đồng (mười bốn triệu, tám trăm nghìn, ba trăm sáu mươi bốn đồng) được trừ đi số tiền 5.000.000 đồng bị cáo đã tự nguyện nộp bồi thường theo biên lai thu tiền số 0009165 ngày 26/6/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q, bị cáo C phải bồi thường cho bị hại số tiền còn lại là 9.800.364 đồng (chín triệu tám trăm nghìn, ba trăm sáu mươi bốn đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật mà bị hại anh Nguyễn Hữu T có đơn yêu cầu thi hành án, mà các bị cáo Nguyễn Hữu C, Hà Văn H1 không thực hiện nghĩa vụ trả tiền thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án cho đến khi thi hành xong theo mức lãi suất quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015; nếu không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyên thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 90/2023/HS-PT
Số hiệu: | 90/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 07/12/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về