TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 83/2020/HSPT NGÀY 04/03/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 04/3/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 20/2020/HSPT ngày 10/01/2020 đối với bị cáo PTM: do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 358/2019/HSST ngày 25/11/2019 của TAND tp TH, Thanh Hóa.
Bị cáo kháng cáo:
PTM: sinh năm 1984; nơi cư trú: SN 192B DT, phường NN, thành phố TH, tỉnh Thanh Hóa; Dân tộc: kinh, Tôn giáo: không, Quốc tịch: Việt Nam; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 4/12; con ông PVH (đã chết), con bà NTT - sinh 1948; Vợ: NTB - sinh 1983, có 02 con (lớn sinh 2012, nhỏ sinh 2015); Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “cấm đi khỏi nơi cư trú”; Vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 18h ngày 14/8/2018, tại khu vực trước nhà anh NVC (số 443 DT, phường NN, thành phố TH) giữa anh NVC và PTM xảy ra cãi vã, xô sát nhau về việc vay mượn tiền. Nghe tiếng ồn ào, ông NVX là bố đẻ anh NVC cầm 01 con dao bằng kim loại, dài khoảng 40cm, bản rộng 4cm, có cán cầm bằng gỗ dài 10cm đi từ trong nhà ra can ngăn thì PTM chửi bới nên ông NVX dùng dao chém 01 nhát vào đầu PTM. Lúc này, bà NTP vợ ông NVX chạy ra can ngăn và giằng lấy dao trên tay ông NVX cất đi, sau đó được mọi người can ngăn nên PTM bỏ chạy về nhà, vừa chạy vừa chửi. Bị chửi, ông NVX cầm 01 gậy sắt hình hộp vuông, rỗng, dài 1,2m, rộng 2cm để trước cửa nhà, NVC nhặt 02 cục bê tông ở lề đường đuổi theo đến trước ngõ nhà PTM. Tại đây, hai bên tiếp tục cãi vã lẫn nhau, NVC ném 02 cục bê tông về phía PTM, PTM chạy vào trong ngõ lấy 01 con dao dạng dao quắm, dài khoảng 80cm rồi quay ra chém 01 nhát vào tay phải NVC. Thấy NVC bị chém, ông NVX cầm gậy sắt lao vào đánh PTM thì bị PTM dùng dao chém nhiều nhát vào người. Sau đó hai bên được mọi người can ngăn và đưa đi cấp cứu.
* Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể anh NVC được lập vào hồi 23h00’ ngày 14/8/2018 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa xác định dấu vết, thương tích của anh NVC gồm: 01 vết thương ở 1/3 trên mặt trước trong cẳng tay phải, kích thước 15 x 7cm, bờ mép vết thương sắc gọn, lộ gân cơ đứt.
* Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ông NVX được lập vào hồi 23h00’ ngày 14/8/2018 tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa, xác định dấu vết, thương tích của ông NVX gồm:
- 01 vết thương vùng lưng trái đến ngực trái dài kích thước (15 x 1)cm;
- 01 vết thương mặt trước 1/3 giữa cánh tay phải dài kích thước (4 x 1)cm, chảy máu;
- 01 vết thương mặt dưới cánh tay phải dài kích thước (4 x 0,5)cm.
- 01 vết thương mặt sau khuỷu tay trái kích thước (5 x 1)cm.
Ngày 30/10/2018, anh NVC và ông NVX có đơn đề nghị cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự và đề nghị được đi giám định thương tích.
* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 693/2018/TTPY ngày 08/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (BL 35) kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể của anh NVC do thương tích gây nên là 34% (tính theo phương pháp cộng lùi theo Điều 4 - Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế), trong đó:
- Tổn thương dây thần kinh giữa: 15% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; Bảng 1;
chương 2; mục VII; 3.21).
- Tổn thương dây thần kinh trụ: 15% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; bảng 1;
chương 2; mục VII; 3.17).
- Sẹo vết thương phần mềm vùng 1/3 trên mặt trước trong cẳng tay phải; số lượng sẹo ít, kích thước lớn: 8% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; bảng 1; chương 9;
mục I; 3).
Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 694/2018/TTPY ngày 08/11/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (BL 38) về cơ chế hình thành thương tích cụ thể trên cơ thể anh NVC thể hiện:
- 01 vết thương ở 1/3 trên mặt trước trong cẳng tay phải, kích thước 15 x 7cm, bờ mép vết thương sắc gọn, lộ gân cơ đứt: do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc; gây tổn thương đứt cơ gấp nông sâu ngón II đến ngón V, cơ gấp cổ tay quay, sấp tròn, thần kinh giữa - trụ. Đã được điều trị, hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng 1/3 trên mặt trước trong cẳng tay phải; tổn thương dây thần kinh trụ và giữa nhánh cẳng tay phải ngang mức tổn thương.
Tại thời điểm giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích: không đủ chứng cứ khoa học và các dữ liệu khách quan để xác định chính xác chiều hướng tác động và lực tác động của vật gây thương tích.
* Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 767/2018/TTPY ngày 12/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (BL 46) kết luận: tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông NVX do thương tích gây nên là 10% (theo phương pháp cộng lùi theo Điều 4- Thông tư 20/2014/TT-BYT ngày 12/6/2014 của Bộ Y tế), trong đó:
- Các sẹo vết thương phần mềm vùng lưng trái đến ngực trái có hình vòng cung, vùng 1/3 giữa mặt trước cánh tay phải, vùng mặt sau khuỷu tay trái; số lượng sẹo ít, kích thước từ trung bình đến lớn: 10% (Thông tư 20/2014/TT-BYT; bảng 1; chương 9; mục I; 3).
- Chấn thương, vết thương vùng mặt dưới cánh tay phải đã được điều trị; hiện tại không còn sẹo vết thương phần mềm, không có di chứng do chấn thương: 0%.
Tại bản kết luận giám định pháp y bổ sung số 770/2018/TTPY ngày 12/12/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa (BL 49) về cơ chế hình thành thương tích cụ thể trên cơ thể ông NVX thể hiện:
- 01 vết thương vùng lưng trái đến ngực trái dài kích thước (15 x 1)cm; Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc. Đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng lưng trái đến ngực trái có hình vòng cung.
- 01 vết thương mặt trước 1/3 giữa cánh tay phải dài (4 x 1)cm, chảy máu: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Đã được điều trị: hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng 1/3 giữa mặt trước cánh tay phải.
- 01 vết thương mặt dưới cánh tay phải dài kích thước (4 x 0,5)cm: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Đã được điều trị; hiện tại vùng mặt dưới cánh tay phải không thấy có sẹo vết thương phần mềm, không có di chứng tổn thương chức năng do chấn thương.
- 01 vết thương mặt sau khuỷu tay trái kích thước (5 x 1)cm: Do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật có cạnh sắc nhọn. Đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng mặt sau khuỷu tay trái.
Tại thời điểm giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích: không đủ chứng cứ khoa học và các dữ liệu khách quan để xác định chính xác chiều hướng tác động và lực tác động của vật gây thương tích.
Anh NVC cấp cứu tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa từ 22h11’ đến 23h26’ ngày 14/8/2018, sau đó chuyển ra bệnh viện Việt Đức - Hà Nội cấp cứu và điều trị từ ngày 15/8/2018 đến ngày 17/8/2018. Tổng chi phí điều trị gồm:
- Tiền viện phí tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa: 987.698đ.
- Hợp đồng thuê xe vận chuyển cấp cứu bệnh nhân ngày 14/8/2018: 3.100.000đ.
- Tổng tiền chi phí dịch vụ tại Bệnh viện Việt Đức - Hà Nội: 8.666.490đ.
Tổng cộng: 12.754.188đ.
Ông NVX điều trị tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa từ ngày 14/8/2018 đến 16/8/2018. Tổng chi phí điều trị hết 2.427.100đ (viện phí).
Anh NVC và ông NVX yêu cầu PTM phải bồi thường theo quy định pháp luật.
Ngày 21/11/2019, PTM đã tự nguyện giao nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa số tiền 20.000.000đ để bồi thường cho anh NVC và 5.000.000đ để bồi thường cho ông NVX.
Về vật chứng: Cơ quan điều tra đã tiến hành truy tìm tang vật nhưng không thu giữ được.
Đối với hành vi gây thương tích cho PTM của anh NVC và ông NVX đã bị xử lý ở vụ án khác.
Ngày 11/10/2019, anh NVC và ông NVX có đơn đề nghị giám định lại tỷ lệ thương tật vì cho rằng kết luận giám định không khách quan, không thể hiện hết các vết thương và tỷ lệ thương tật, không phù hợp với hậu quả do vết chém của PTM gây ra. Tuy nhiên, tại phiên tòa anh NVC và ông NVX đã tự nguyện rút yêu cầu, không đề nghị được giám định lại nữa.
Quá trình điều tra, PTM khai nhận không dùng dao chém gây thương tích cho anh NVC và ông NVX mà chỉ dùng một thanh sắt phi 6 khua lung tung nhưng không biết có trúng vào ai không.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 358/2019/HSST ngày 25/11/2019 của TAND tp Thanh Hóa, Thanh Hóa đã quyết định:
Căn cứ: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS; Điều 590 BLDS; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 332, Điều 333 BLTTHS; Điểm a, c Khoản 1 Điều 23; Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: PTM 05 năm 06 tháng tù tội "Cố ý gây thương tích”.
Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên trách nhiệm dân sự, án phí và quyền kháng cáo của những người tham gia tố tụng.
Ngày 02/12/2019, bị cáo PTM có đơn kháng cáo đề nghị tòa phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.
* Tại phiên tòa phúc thẩm: Bị cáo vắng mặt tại phiên tòa.
Đại diện VKSND tỉnh Thanh Hóa đề nghị không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Bị cáo PTM đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai. Tuy bị cáo có đơn xin hoãn phiên tòa vì đang điều trị bệnh, nhưng xét thấy sự vắng mặt bị cáo không gây trở ngại cho việc xét xử, nên căn cứ điểm c khoản 1 điều 351 BLTTHS, Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm tiến hành xét xử vắng mặt bị cáo PTM là phù hợp.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo PTM thấy rằng: Khoảng 18h ngày 14/8/2018, tại khu vực trước nhà anh NVC, bị cáo và NVC đã xảy ra cãi vã, xô sát, đánh nhau về việc vay mượn tiền. Sau đó, ông NVX là bố đẻ anh NVC cầm 01 con dao bằng kim loại từ trong nhà ra chém vào đầu bị cáo. Bị cáo ôm đầu chạy về nhà thì ông NVX cầm gậy sắt, anh NVC cầm đá đuổi theo đến cổng nhà bị cáo rồi cãi vã, ném đá về phía bị cáo; bị cáo đã dùng dao quắm chém vào tay anh NVC 01 nhát, chém vào người ông NVX nhiều nhát. Hậu quả anh NVC bị tổn thương cơ thể 34%, ông NVX bị tổn thương cơ thể 10%.
Hành vi của bị cáo PTM phạm tội “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 BLHS là tội phạm rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ 5 – 10 năm tù. Án sơ thẩm đã xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên chỉ xử bị cáo trên mức khởi điểm của khung hình phạt. bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới, hình phạt cũng đã phù hợp nên thống nhất quan điểm của đại diện VKSND tỉnh không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên hình phạt như án sơ thẩm đã tuyên.
[2] Án phí: Kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí Hình sự phúc thẩm. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị toà không xem xét.
Vì các lẽ trên Căn cứ Điểm c Khoản 1 Điều 351; Điểm a Khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015.
QUYẾT ĐỊNH
1, Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo PTM. Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 358/2019/HSST ngày 25/11/2019 của TAND tp Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa về hình phạt của bị cáo.
Căn cứ: Điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Xử phạt: PTM 05 năm 06 tháng tù tội "Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày thi hành án.
2, Án phí: Bị cáo PTM phải nộp 200.000đ án phí HSPT.
3, Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 83/2020/HSPT
Số hiệu: | 83/2020/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 04/03/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về