Bản án về tội cố ý gây thương tích số 824/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PH H CHÍ MINH

BẢN ÁN 824/2023/HS-PT NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 253/2023/TLPT-HS ngày 14 tháng 4 năm 2023, do có kháng cáo của bị cáo Hoàng Tuấn A đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HS-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 5496/2023/QĐXXPT-HS ngày 09 tháng 10 năm 2023, đối với:

* Các bị cáo:

1. Hoàng Tuấn A, sinh năm 2001 tại tỉnh N; Nơi cư trú: số C, đường Ố, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Hải Q sinh năm 1979 và bà Đỗ Thị Thảo N sinh năm 1978; bị cáo có vợ tên Lê Thị N1 và chưa có con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 28 tháng 9 năm 2022 cho đến nay (có mặt).

2. Ngô Công H, sinh năm 2000 tại tỉnh N; nơi cư trú: xóm A, xã T, huyện X, tỉnh N; nơi tạm trú: đường N, khu phố N, phường D, thành phố D, tỉnh B; nghề nghiệp: sửa xe; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Công T sinh năm 1950 và bà Đỗ Thị Lê S năm 1954; bị cáo chưa có vợ con; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 04 tháng 7 năm 2021 cho đến nay (có mặt).

3. Nguyễn Minh T1, sinh năm 2001 tại Thành phố H; Nơi cư trú: số A, đường L, khu phố c, phường B, thành phố T, Thành phố H; nghề nghiệp: công nhân; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyên Minh M sinh năm 1970 và bà Đặng Thị H1 sinh năm 1972; bị cáo chưa có vợ; tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 20 tháng 01 năm 2022 cho đến nay.

* Người bào cha cho bị cáo Hoàng Tuấn A: Có luật sư Nguyễn Tri T2, Đoàn luật sư Thành phố H (có mặt).

* Bị hại: Ông Nguyễn Đình C, sinh năm 1982; Nơi cư trú: số A1C 404, khu phố D, phường A, thành phố T, tỉnh B (vắng mặt).

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Bà Đỗ Thị Thảo N, sinh năm 1978; Nơi cư trú: số C, đường Ố, khu phố T, phường T, thành phố D, tỉnh B (mẹ bị cáo, có mặt).

2. Bà Đặng Thị H1, sinh năm 1972; Nơi cư trú: số A, đường L, khu phố C, phường B, Thành phố T, Thành phố H (vắng mặt) 3. Bà Ngô Thị H2, sinh năm 1989; Nơi cư trú: số B, đường A, khu phố F, phường B, Thành phố T, Thành phố H (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 03 tháng 7 năm 2021, Hoàng Tuấn A, Ngô Công H, Nguyễn Minh T1, Lê Thị N1, Nguyễn Thiện H3, H4, M1 (H4, M1 chưa rõ lai lịch) cùng đi ăn, uống bia với nhau tại quán nhậu (không rô tên) tại thành phố D, tỉnh B. Trong lúc uống bia, Tuấn A có kể cho cả nhóm nghe việc Tuấn A có mâu thuẫn với ông Nguyễn Đình C, là bảo vệ nhà giữ xe Khu nhà ở An sinh xã hội thuộc khu phố D, phường A, thành phố T, tỉnh B, do Tuấn A gửi xe trong khu nhà sau 22 giờ nên ông C không cho gửi. Tuấn A rủ H, T1, M1, H3 cùng đi đánh ông C để trả thù thì H và T1 đồng ý, riêng M1 và H3 không đồng ý do chuyện không liên quan đến mình. H, M1 và H3 ở gần nhau nên H nói M1 và H3 cùng đưa N1, H4 về Khu nhà ở An sinh xã hội rồi về chung thì M1, H3 đồng ý. Tuấn A, H, T1, M1, H3 cùng đưa N1, H4 về Khu nhà ở An sinh xã hội thuộc khu phố D, phường A, thành phố T, tỉnh B. Khi đến nơi, M1 và H3 đứng bên ngoài cách Khu nhà ở An sinh xã hội khoảng 10 mét để đợi H về chung, còn H, T1, N1, H4 đứng gần cầu thang đi lên khu nhà ở. Tuấn A điều khiển xe mô tô (không rồ biển số) đi vào nhà giữ xe của khu nhà thì ông C cho gửi xe. Tuấn A quay lại chỗ H, T1, N1, H4 đang đứng thì H hỏi ông C có phải là người có mâu thuẫn với Tuấn A hay không thì Tuấn A nói phải. Lúc này, H đi đến chỗ ông C rồi lao đến dùng tay đấm liên tục nhiều cái vào đầu, mặt của ông C. Thấy vậy, Tuấn A và T1 cùng lao vào dùng tay, chân đấm, đá liên tục nhiều cái vào đầu, mặt, bụng, lưng, tay của ông C, khiến ông C bị té ngã ngửa vào giữa hai xe mô tô. H tiếp tục dùng tay đấm, chân đạp vào vùng mặt, đầu, ngực của ông C. T1 dùng chân đạp vào hông của ông C. Thấy vậy, N1 và H3 chạy vào ôm, can ngăn thì H cùng T1, Tuấn A lấy xe bỏ đi. Ông C được người nhà đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện B, sau đó chuyển đến Bệnh viện Đa khoa tỉnh B để tiếp tục cấp cứu.

Ngày 05 tháng 7 năm 2021, ông Nguyễn Đình C làm đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và yêu cầu được giám định thương tích.

* Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 410/2021/GĐPY ngày 10 tháng 9 năm 2021 của Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh B đối với bị hại Nguyễn Đình C:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Chấn thương sọ não máu tụ dưới màng cứng bán cầu phải đã phẫu thuật lấy máu tụ, vết mổ (22 x 0,4) cm, sẹo lành. Di chứng: Khuyết sọ thái dương - đỉnh phải (12 x 10,5) cm, đáy phập phồng, yếu nửa người trái nhẹ, sức cơ 4/5. Chấn thương sưng bầm 2 mắt, sưng đau cẳng tay phải đã lành.

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với bị hại Nguyễn Đình C là 62% (sáu mươi hai phần trăm).

- Cơ chế hình thành vết thương: Chấn thương sọ não máu tụ dưới màng cứng bán cầu phải: Chấn thương kín, không có vết thương ngoài da, khả năng do vật tày tác động vào vùng đầu theo chiều hướng từ phải sang trái gây ra. Chấn thương sưng bầm 02 mắt, sưng đau cẳng tay phải đã lành, không còn dấu tích nên không xác định được cơ chế hình thành vết thương.

Ngày 30 tháng 6 năm 2022, Trung tâm pháp y - Sở Y tế tỉnh B có Công văn số 84/CV về thương tích của bị hại Nguyễn Đình C: Trường hợp thương tích của bị hại Nguyễn Đình C nếu không điều trị cấp cứu kịp thời, tình trạng xuất huyết não sẽ dẫn đến chèn ép não thất, có thể gây ngưng tim ngưng thở, khả năng nguy hiểm đến tính mạng.

* Về trách nhiệm dân sự: Đại diện gia đình bị cáo Ngô Công H và Nguyễn Minh T1 đã bồi thường cho bị hại Cảnh 170.000.000 đồng (một trăm bảy mươi triệu đồng). Bị hại C yêu cầu các bị cáo Tuấn A, H, T1 bồi thường thêm 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Bị cáo Tuấn A chưa bồi thường cho bị hại.

* Tại Cáo trạng số 173/CT-VKSBD.P2 ngày 30 tháng 11 năm 2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B đã truy tố các bị cáo Hoàng Tuấn A, Ngô Công H, Nguyễn Minh T1 về tội “Giết người” quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Tại Bản án hình sự sơ thm số 24/2023/HSST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B, quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Hoàng Tuấn A, Nguyễn Minh T1, Ngô Công H phạm tội “Giết người” (chưa đạt).

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Xử phạt bị cáo Hoàng Tuấn A 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 9 năm 2022.

- Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15, điểm b, s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) Xử phạt bị cáo Ngô Công H 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2021.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T1 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20 tháng 01 năm 2022.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, việc thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 14/3/2023, bị cáo Hoàng Tuấn A có đơn kháng cáo cho rằng không có ý định giết bị hại; đồng ý tội “Cố ý gây thương tích” ở khoản 3 và xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 24/3/2023 bị cáo Nguyễn Minh T1 có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; đến ngày 31/5/2023 bị cáo xin rút lại toàn bộ yêu cầu kháng cáo. Do đó, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố H đã ban hành Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 21/2023/HSPT-QĐ ngày 26/6/2023, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng cáo đã rút của bị cáo T1.

* Tại phiên tòa phúc thm:

- Bị cáo vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo;

- Luật sư bào chữa cho bị cáo cho rằng các bị cáo phạm tội không có tính chất côn đồ nên đề nghị xét xử bị cáo tội “Giết người” ở khoản 2 Điều 123 của Bộ luật hình sự. Đồng thời, phía gia đình bị cáo đã nộp xong số tiền bồi thường thiệt hại theo bản án sơ thẩm đã tuyên nên đề nghị cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên tội danh như cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử. Về hình phạt đề nghị xem xét tình tiết giảm nhẹ mới: đã bồi thường, khắc phục hậu quả.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong h sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Do có mâu thuẫn với bị hại Nguyễn Đình C trong việc gửi giữ xe, nên Hoàng Tuấn A rủ Ngô Công H, Nguyễn Minh T1 đánh bị hại C để trả thù. Ngày 03 tháng 7 năm 2021, tại Khu nhà ở An sinh xã hội thuộc khu phố D, phường A, thành phố T, tỉnh B; Bị cáo Ngô Công H dùng tay đấm liên tục nhiều cái vào đầu, mặt của bị hại; các bị cáo Tuấn A và T1 dùng tay, chân, đá liên tục nhiều cái vào đầu, mặt, bụng, lưng, tay của bị hại khiến bị hại té ngã ngửa vào giữa xe mô tô; H tiếp tục dùng tay đấm, chân đạp vào vùng mặt, đầu, ngực của ông C, T1 dùng chân đạp vào hông của ông C, dẫn đến bị hại Nguyễn Đình C bị chấn thương sọ não, máu tụ dưới màng cứng, chấn thương sưng bầm 02 mắt, sưng đau cẳng tay phải. Theo kết luận giám định, thì tỷ lệ tổn thương cơ thể của bị hại là 62%.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thừa nhận hành vi và thương tích gây ra cho bị hại. Nhưng cho rằng, không có ý định giết bị hại, chỉ là đánh để trả thù.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo, thấy rằng:

[2.1]. Về tội danh:

Trong vụ án này không đủ chứng cứ để chứng minh động cơ, mục đích giết người của các bị cáo; hậu quả chết người không xảy ra, bị hại C chỉ bị thương tích 62%. Hành vi của các bị cáo dùng tay, chân để đánh, đá, đạp vào người bị hại....không nhằm tước đoạt mạng sống của bị hại nên thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo Điều 134 của Bộ luật hình sự. Cấp sơ thẩm truy tố, xét xử các bị cáo phạm tội “Giết người” là chưa phù hợp với động cơ, mục đích và hậu quả của hành vi phạm tội.

Căn cứ vào tỷ lệ thương tích của bị hại, cũng như tính chất “côn đồ” do hành vi phạm tội của các bị cáo; cấp phúc thẩm có đủ cơ sở để sửa tội danh từ tội “Giết người” sang tội “Cố ý gây thương tích” được quy định tại điểm d khoản 4 Điều 134 của Bộ luật hình sự:

Khoản 4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 14 năm:

..................

d) Gây thương tích hoặc gây tn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tn thương cơ th 61% trở lên nhưng thuộc một trong các trường hợp quy định tại các đim từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều này;

Khoản 1.

...................

i) Có tính chất côn đồ;

[2.2]. Về mức hình phạt:

Với tội danh trên thì mức hình phạt từ 07 đến 14 năm tù, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng. Tuy cấp phúc thẩm chấp nhận kháng cáo chuyển tội danh cho các bị cáo sang tội nhẹ hơn. Nhưng căn cứ vào tính chất của hành vi, hậu quả, các tình tiết giảm nhẹ và nhân thân của các bị cáo thì mức hình phạt mà án sơ thẩm đã tuyên phạt bị cáo Hoàng Tuấn A 12 năm tù, bị cáo Ngô Công H 11 năm tù và Nguyễn Minh T1 10 năm tù là tương xứng, đủ để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, Luật sư có xuất trình chứng cứ chứng minh gia đình bị cáo Tuấn A đã nộp đủ số tiền khắc phục hậu quả và phía bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy, đây là tình tiết giảm nhẹ mới nên có căn cứ để Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo, giảm nhẹ 01 phần hình phạt cho bị cáo.

[3]. Từ những phân tích và nhận định trên, có căn cứ chấp nhận kháng cáo cũng như quan điểm bào chữa của Luật sư theo hướng sửa án sơ thẩm về tội danh và giảm hình phạt cho bị cáo Tuấn A.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát đề nghị xem xét tình tiết giảm nhẹ mới để quyết định hình phạt cho bị cáo là phù hợp.

[4]. Mặc dù các bị cáo Ngô Công H, Nguyễn Minh T1 không kháng cáo; nhưng xét thấy cần sửa án sơ thẩm về tội danh đối với tất cả các bị cáo Hoàng Tuấn A, Ngô Công H và Nguyễn Minh T1 từ tội “Giết người” sang tội “Cố ý gây thương tích” như đã nhận định ở mục [2.1].

[5]. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Tuấn A không phải chịu.

[6]. Các phần khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực thi hành kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355; Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự;

Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 24/2023/HS-ST ngày 10 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B.

Tuyên xử:

1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo: Hoàng Tuấn A, Ngô Công H, Nguyễn Minh T1 phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm d khoản 4 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Hoàng Tuấn A, Ngô Công H, Nguyễn Minh T1;

- Xử phạt bị cáo Hoàng Tuấn A 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 9 năm 2022.

- Xử phạt bị cáo Ngô Công H 11 (mười một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04 tháng 7 năm 2021.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh T1 10 (mười) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 20 tháng 01 năm 2022.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo Hoàng Tuấn A không phải chịu.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

6. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

44
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 824/2023/HS-PT

Số hiệu:824/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về