Bản án về tội cố ý gây thương tích số 80/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ BẾN CÁT, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 80/2024/HS-ST NGÀY 04/04/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 04 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 60/2024/TLST- HS ngày 07 tháng 3 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 73/2024/QĐXXST-HS ngày 07/3/2024 và Quyết định hoãn phiên tòa số 05/2024/HSST-QĐ ngày 19/3/2024, đối với bị cáo:

Phan Bình D, sinh năm 2000, tại tỉnh H; hộ khẩu thường trú: Ấp L, xã L , huyện P, tỉnh H; tạm trú: Nhà trọ H, tổ 5, khu phố 8, phường C, thị xã B, tỉnh B; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông P và bà N2, có vợ là Phan Thị Thủy T1, có 01 con sinh năm 2023; tiền án, tiền sự: Không; ngày 02/12/2023, bị cáo bị áp dụng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú, bị cáo có mặt tại phiên toà.

Bị hại: Ông Trần Hoàng L, sinh năm 2001 (yêu cầu xét xử vắng mặt) Địa chỉ: Ấp V, xã C, huyện C, tỉnh A; tạm trú: Nhà trọ T, đường N, khu phố 7, phường C, thị xã B, tỉnh Bình D.

Người làm chứng:

1. Danh Rô T, sinh năm 1994 (vắng mặt)

2. Huỳnh Văn N, sinh năm 2000 (vắng mặt)

3. Võ Văn N1, sinh năm 1990 (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phan Bình D, Trần Hoàng L, Danh Rô T , Huỳnh Văn N, và Võ Văn N1 làm chung Công ty H tại địa chỉ: Đường NA3, khu phố 3, phường M, thị xã B, tỉnh B. Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 21/9/2023, D, L, N, Rô T và N1 tổ chức uống rượu tại Quán 123 Zô, cạnh đường DA1-2 thuộc khu phố 3, phường M, thị xã B. Đến khoảng 22 giờ cùng ngày, L và Rô T xảy ra mâu thuẫn vì L gắp mỳ bỏ vào chén cho Rô T, nhưng Rô T không ăn mà đứng dậy xin phép mọi người ra về. L đứng lên dùng tay chỉ vào mặt Rô T chửi mắng và nói “mày thích gì”. Lúc này, Rô T không nói gì nhưng D thấy bức xúc vì thái độ của L với Rô T , D cầm ly thủy tinh uống bia đánh 01 cái vào vùng mặt bên phải của L gây thương tích. Sau đó, D bỏ ra về, còn L được mọi người đưa đi bệnh viện. Ngày 23/9/2023, Trần Hoàng L đến Công an phường Mỹ Phước trình báo hành vi cố ý gây thương tích của Phan Bình D. Cùng ngày, Công an phường Mỹ Phước mời D làm việc thì D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Sau đó, vụ việc chuyển giao cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Bến Cát giải quyết theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ: 01 USB bên trong chứa đoạn video ghi lại hình ảnh Phan Bình D thực hiện hành vi phạm tội.

Theo Kết luận giám định số 627/2023/KLGĐ-TTPY ngày 06/11/2023 của Trung tâm Pháp y tỉnh Bình Dương, kết luận:

- Các kết quả chính: 02 vết thương má phải 1,2 x 0,2cm và 1,3 x 0,2cm, sẹo lành; vết thương phức tạp má phải – sau tai phải 12,5 x 0,5cm, sẹo lành.

- Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Trần Hoàng L là 12% (mười hai phần trăm).

- Cơ chế hình thành thương tích: Các vết thương khả năng do vật có cạnh sắc hoặc có góc cạnh gây ra.

Về trách nhiệm dân sự: Phan Bình D đã bồi thường chi phí điều trị thương tích cho Trần Hoàng L với số tiền 30.000.000 đồng. L không yêu cầu gì khác và có đơn xin giảm nhẹ hình phạt đối với D.

Tại Cơ quan điều tra, bị cáo D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội.

Tại bản Cáo trạng số 77/CT-VKSBC ngày 06/3/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo Phan Bình D về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

* Tại phiên tòa:

- Vị đại diện VKSND thị xã Bến Cát trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo D về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng, nhưng cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách theo quy định pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự, bị hại không yêu cầu nên không đề nghị xem xét.

- Bị cáo D đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả và thừa nhận hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận.

Trong lời nói sau cùng, bị cáo đã xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và tạo điều kiện cho bị cáo được tiếp tục lao động, nuôi sống gia đình. Bị cáo rất ăn năn về hành vi đã thực hiện.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã Bến Cát, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Bị cáo đồng ý với kết luận Giám định pháp y về thương tích đối với bị hại. Do đó, các hành vi, quyết định Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận:

Khoảng 22 giờ ngày 21/9/2023, tại quán 123 Zô cạnh đường DA1-2 thuộc khu phố 3, phường Mỹ Phước, thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương, Phan Bình D uống rượu cùng Danh Rô T , Huỳnh Văn N, Võ Văn N1. Bị cáo D bức xúc do L có mâu thuẫn với Rô T , bị cáo D đã có hành vi dùng ly thủy tinh đánh 01 cái vào vùng má bên phải của bị hại L, gây thương tích cho bị hại L với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 12%. Bị cáo D đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.

Do đó, bản Cáo trạng số 77/CT-VKSBC ngày 06/3/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Bến Cát truy tố bị cáo Phan Bình D về tội: “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi dùng hung khí nguy hiểm gây thương tích cho bị hại của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm sức khỏe của con người được pháp luật bảo vệ.

Về nhận thức bị cáo biết hành vi cố ý gây thương tích là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ mà bị cáo sử dụng hung khí nguy hiểm gây thướng tích cho bị hại bất chấp hậu quả xảy ra, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn tại địa phương. Do đó, cần có mức hình phạt nghiệm tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đủ để cải tạo bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và phòng ngừa tội phạm chung.

[3] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã bồi thường thiệt hại cho bị hại; bị cáo đầu thú; bị hại có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là trụ cột lao động chính. Do vậy, bị cáo được HĐXX cho hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về hình phạt: Bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội, nơi cư trú rõ ràng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, là lao động chính. Xét thấy, không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, bị cáo có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội theo quy định tại Nghị quyết số 02/VBHN-TANDTC ngày 07/9/2022 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự về án treo. Do đó, xét lời đề nghị cho bị cáo được hưởng án treo của vị đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ chấp nhận.

[6] Xét thấy, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại tổng số tiền là 30.000.000 đồng. Bị hại không yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về trách nhiệm dân sự, nên HĐXX không đặt ra xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Các Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố bị cáo Phan Bình D phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt bị cáo Phan Bình D 02 (hai) năm tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời hạn thử thách là 04 (bốn) năm, được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 04/4/2024).

Giao bị cáo Phan Bình D cho Ủy ban nhân dân phường C, thị xã B, tỉnh B giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì Ủy ban nhân dân xã (thị trấn) nơi được giao để giám sát phải thông báo cho Cơ quan Thi hành án hình sự thị xã Bến Cát, tỉnh Bình Dương để tiến hành thủ tục theo quy định tại Điều 68 và Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của Bản án đã cho hưởng án treo.

2. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong.

3. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong, nên không xem xét.

4. Về án phí: Buộc bị cáo Phan Bình D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 04/4/2024).

- Bị hại vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết công khai theo quy định pháp luật./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 80/2024/HS-ST

Số hiệu:80/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về