TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH
BẢN ÁN 76/2023/HS-PTNGÀY 17/10/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 17 tháng 10 năm 2023 tại Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 72/2023/TLPT-HS ngày 07 tháng 9 năm 2023 đối với bị cáo Lê Văn C do có kháng cáo của bị cáo Lê Văn C và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2023/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
- Bị cáo có kháng cáo và bị kháng nghị:
Họ và tên: Lê Văn C, sinh ngày 22/4/1991 tại huyện T, tỉnh Quảng Ninh; nơi cư trú: thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn C1 và bà Bùi Thị C2; vợ: Bùi Thị H. bị cáo có 02 con, đều sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” và “Tạm hoãn xuất cảnh”, hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Chị Đinh Thị H1, sinh năm 1986; địa chỉ: số nhà C, phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.
- Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị hại: Ông Lê Anh N- Luật sư Công ty L1; địa chỉ: Số E, Ngô A, phố P, phường L, quận Đ, thành phố Hà Nội, có mặt.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Lý Việt H2, sinh năm 1978; địa chỉ: số nhà C, phố T, thị trấn T, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.
2. Chị Bùi Thị H, sinh năm 2001; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, có mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Hoàng Văn T, sinh năm 1996, vắng mặt.
2. Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1955, vắng mặt.
3. Ông Hoàng Văn S, sinh năm 1952, vắng mặt.
4. Chị Vũ Thị H3, sinh năm 1998; địa chỉ: thôn Đ, xã T, huyện T, tỉnh Quảng Ninh, vắng mặt.
5. Anh Chu Văn Đ, sinh năm 1999, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 15 giờ ngày 04/12/2022, Lê Văn C và Chu Văn Đ đến nhà hàng “Linh Chi” tại phố L, thị trấn T, huyện T của vợ chồng anh Lý Việt H2 và chị Đinh Thị H1 để đòi tiền (do chị Lý Khánh L là con anh H2, chị H1 nợ tiền chơi “Họ” của Đ). Tại đây, Đ và C gặp anh H2 đòi tiền thì xảy ra xô xát cãi chửi nhau, Đại xoa và hất bàn cờ của anh H2, anh H2 bỏ chạy xuống bếp thì bị C cầm 02 chiếc ghế nhựa ném về phía anh H2 nhưng không trúng, làm ghế bị gãy, Đ đi ra bàn cờ cầm chiếc điếu cày, lúc này anh H2 cầm 01 chiếc Cuốc đi lên, hai bên cãi chửi và thách thức hẹn ra cầu L đánh nhau. Sau đó, C và Đ đi về xưởng cơ khí T1 tại phố T, thị trấn T, huyện T (nơi C làm việc), C lấy 01 tuýp sắt, dài khoảng 01 mét, tiết diện vuông, một đầu vát nhọn rồi cùng Đ quay lại nhà hàng L2 cãi nhau với anh H2. Lúc này, chị Đinh Thị H1 (vợ anh H2) vừa về đến quán, chị Bùi Thị H (vợ C) và chị Vũ Thị H3 (vợ Đ) cũng đến thì giữa chị H1 và chị H3 xảy ra cãi chửi nhau, chị H3 cầm chiếc xô nhựa đựng rác ném về phía chị H1 nhưng không trúng, và chị H1 cầm chiếc ghế nhựa ném về phía chị H3 thì C đỡ được, C tay trái cầm tuýp sắt chỉ về phía chị H1, chửi bới, và lao vào dùng tay phải tát một nhát vào mặt chị H1 rồi dùng tay trái (tay thuận của C) cầm tuýp sắt vụt ngang một nhát về phía chị H1 theo chiều từ trái sang phải nhưng trúng vào cạnh cửa sắt bên trái làm móp thành cửa, C tiếp tục cầm tuýp sắt vụt ngang một nhát nữa theo chiều từ trái sang phải về phía chị H1 thì đầu nhọn của tuýp sắt sượt qua đầu ngón tay giữa bên phải của chị H1 làm rách da, chảy máu, nên C dừng lại, hai bên đứng cãi chửi nhau một lúc thì được mọi người can ngăn nên đi về; chị H1 được đưa đến Bệnh xá Quân y sơ cứu vết thương.
Ngày 02/03/2023, chị H1 có đơn yêu cầu khởi tố vụ án.
Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 106/23/TgT ngày 21/02/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh Q, kết luận: Sẹo vết thương phần mềm mặt lòng đốt III ngón 3 tay phải kích thước nhỏ; vết biến đổi rối loạn sắc tố da mặt mu đốt II ngón 3 tay phải kích thước (1,2x0,2)cm. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 01% (một phần trăm); Các tổn thương trên là do vật sắc nhọn trực tiếp gây nên.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 11/2023/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên đã căn cứ vào: điểm a, i khoản 1 Điều 134, điểm b, i, s khoản 1 Điều 51, khoản 3 Điều 54 Bộ luật Hình sự, xử phạt Lê Văn C 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.
Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 02/8/2023 bị cáo có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo với lý do đã nhận thức được hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật nên đã khai báo thành khẩn; bản thân thiếu hiểu biết pháp luật và mặc dù hoàn cảnh gia đình khó khăn nhưng đã cố gắng vay mượn để bồi thường khắc phục hậu quả.
Ngày 25/8/2023 bị cáo có đơn xin rút đơn kháng cáo với lý do hành vi phạm tội của bị cáo đã rõ nên xin rút kháng cáo để đi chấp hành án.
Ngày 25/8/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh có quyết định số 17/QĐ-VKSQN, kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm số: 11/2023/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên về phần căn cứ áp dụng pháp luật và phần hình phạt, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh xét xử phúc thẩm theo hướng sửa bản án sơ thẩm, không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; giữ nguyên mức hình phạt tù nhưng cải biện pháp thi hành, cho bị cáo Lê Văn C được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị hại chị Đinh Thị H1 xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử hủy bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh và đình chỉ giải quyết vụ án đối với bị cáo Lê Văn C.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Lê Văn C đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu rút yêu cầu khởi tố vụ án của bị hại, hủy bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh và đình chỉ giải quyết vụ án.
Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh tại phiên toà phúc thẩm: do bị hại xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo Lê Văn C nên Đại diện Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh xin rút lại Quyết định kháng nghị số 17/QĐ-VKSQN ngày 25/8/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh và đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355; Điều 359 Bộ luật tố tụng hình sự hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: đơn kháng cáo của bị cáo Lê Văn C và Quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh làm trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét đề nghị xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại chị Đinh Thị H1 tại phiên toà phúc thẩm: đây là vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại, Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện vụ án, đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để từ đó xử phạt bị cáo Lê Văn C mức hình phạt 03 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ và phù hợp với quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị hại là chị Đinh Thị H1 đã rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, Hội đồng xét xử xét thấy: việc bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với bị cáo Lê Văn C về tội “Cố ý gây thương tích” theo khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự là hoàn toàn tự nguyện, đúng quy định của pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự của bị hại. Căn cứ vào khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355 và Điều 359 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
Việc Tòa án cấp phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án là do người đã yêu cầu khởi tố vụ án hình sự rút yêu cầu, không phải do lỗi của Tòa án cấp sơ thẩm.
Do bị hại tự nguyện rút yêu cầu khởi tố vụ án, do đó bị hại không có quyền yêu cầu khởi tố lại vụ án.
[3] Đối với kháng cáo của bị cáo và kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh: sau khi kháng cáo, bị cáo đã xin rút lại đơn kháng cáo; tại phiên toà phúc thẩm sau khi bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án thì đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh cũng rút toàn bộ kháng nghị; bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét nội dung kháng cáo của bị cáo và nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ninh.
[4] Về trách nhiệm dân sự: trước khi mở phiên toà phúc thẩm và tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo Lê Văn C và bị hại chị Đinh Thị H1 đã thoả thuận xong về phần bồi thường thiệt hại, trong đó bị cáo C nhất trí dùng số tiền là 10.390.000 đồng mà bị cáo và gia đình đã tự nguyện nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên để bồi thường cho bị hại, bị hại H1 nhất trí với số tiền trên. Xét việc bồi thường này là hoàn toàn tự nguyện nên được Hội đồng xét xử ghi nhận.
Do đó số tiền 10.390.000 đồng mà bị cáo và gia đình đã nộp vào Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên được trả lại cho bị hại.
[5] Về án phí: bị cáo không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và án phí dân sự. Bị hại rút yêu cầu khởi tố vụ án nên bị hại phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 2 Điều 155; điểm d khoản 1 Điều 355; Điều 359 của Bộ luật tố tụng hình sự.
1. Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 11/2023/HS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tiên Yên, tỉnh Quảng Ninh.
Đình chỉ vụ án hình sự đối với bị cáo Lê Văn C.
2. Về trách nhiệm dân sự: căn cứ Điều 48 Bộ luật Hình sự. Ghi nhận bị cáo Lê Văn C tự nguyện dùng số tiền 10.390.000 đồng đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên bồi thường tổn hại sức khỏe cho bị hại chị Đinh Thị H1.
Trả cho Đinh Thị H1 số tiền 10.390.000 đồng (mười triệu, ba trăm chín mươi nghìn đồng) mà bị cáo và gia đình đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên theo Biên lai thu tiền số 0006355 ngày 03/7/2023 và Biên lai thu tiền số 0006358 ngày 02/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên.
3. Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng điểm b khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tổ tụng hình sự. Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 205/LCĐKNCT-TA ngày 07/9/2023 và Quyết định tạm hoàn xuất cảnh số 205/QĐ-TA ngày 07/9/2023 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo Lê Văn C.
4. Về án phí: căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm b khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 về án phí. Bị cáo Lê Văn C không phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, phúc thẩm và án phí dân sự. Trả lại cho bị cáo Lê Văn C số tiền còn lại là 110.000 đồng (một trăm mười nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0006358 ngày 02/8/2023 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tiên Yên.
Bị hại chị Đinh Thị H1 phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bản án hình sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 76/2023/HS-PT
Số hiệu: | 76/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quảng Ninh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/10/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về