Bản án về tội cố ý gây thương tích số 74/2022/HSPT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 74/2022/HSPT NGÀY 17/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 17 tháng 03 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 16/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 01 năm 2022 đối với bị cáo Ngô Đức T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 343/2021/HS-ST ngày 11 tháng 11 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

- Bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: Ngô Đức T; Sinh năm 1984; Tại: Tỉnh Đắk Lắk; hộ khẩu thường trú: số phường TC, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Thôn 8, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dn tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: 12/12; con ông Ngô Đức B1 (đã chết); con bà Trần Thị M1, sinh năm 1958; bị cáo sống như vợ chồng với chị Lê Thị Quyết V1, sinh năm 1993, có 01 con sinh năm 2010; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo tại ngoại. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lê Trung D (Tên gọi khác là Rin); sinh năm 1985; tại: Tỉnh Đắk Lắk; hộ khẩu thường trú: số phường TC, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; chỗ ở hiện nay: Phong trọ số 15, thuộc dãy trọ tại địa chỉ 97 PNL, phường TC, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 10/12; con ông Lê Quang B2 (đã chết); con bà Nguyễn Thị M2, sinh năm 1959; bị cáo sống như vợ chồng với chị Nguyễn Thị Kim V2, sinh năm 1989, có 02 con; con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm 2014; Tiền sự: Không; Tiền án: Không;

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Hiện bị cáo tại ngoại. Vắng mặt tại phiên tòa.

Có Luật sư Lê Xuân Anh Ph thuộc Công ty Luật TNHHMTV Tín Việt là người bào chữa bảo vệ quyền lợi cho bị cáo Ngô Đức T theo yêu cầu của bị cáo.

Bị cáo Lê Trung D kháng cáo nhưng đã rút đơn kháng cáo Tòa án đã ra quyết định đình chỉ việc xét xử phúc thẩm đối với bị cáo D.

- Người bị hại: Ông Trương G, sinh năm 1974; trú tại: 144/2 PNL, thôn 1, xã C, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

- Người đại diện hợp pháp của bị hại: Bà Dương Thị T, sinh năm 1942 (là mẹ ruột ông Trương G); Trú tại: số 144/2 PNL, thôn 1, xã C, thành phố B, tinh Đắk Lắk. Vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Ngô Văn B3, sinh năm 1962; trú tại: số 97 PNL, phường TC, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào sáng ngày 15/8/2020, Lê Trung D và Ngô Đức T cùng bạn là các anh Huỳnh Huy C và anh Trần Phi H nhậu tại dãy phòng trọ địa chỉ: Hẻm 144 PNL, phường TC, thành phố B. Đến khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, D cùng T, anh H, anh C đi về phòng trọ số 15 thuộc dãy trọ tại địa chỉ: 97 PNL, phường TC, thành phố B (phòng trọ do D là người thuê trọ) để tiếp tục nhậu. Khi về đến phòng trọ, D nói anh H đi qua phòng trọ số 09 của dãy trọ (do ông Ngô Văn B3, sinh năm 1962, là người thuê trọ) đế hỏi mượn ông B chiếc loa di động (loại loa kẹo kéo) mang về phòng để vừa hát Karaoke vừa nhậu, thì anh H đồng ý. Lúc này, do ông B3 cũng đang hát Karaoke và nhậu với bạn nên không đồng ý cho anh H mượn, đồng thời ông B3 rủ nhóm của anh H qua phòng cùng nhậu vói nhóm của ông B3. Sau đó, anh H cùng D, T và anh C cầm bia đi qua phòng ông B3 để nhậu chung thì thấy trong phòng có ông B3 và một người phụ nữ tên D1 (chưa xác định nhân thân lai lịch, là người quen của ông B3). Tại đây, tất cả ngồi nhậu được một lúc thì ông Trương G đi vào và ngôi nhậu cùng. Quá trình ngồi nhậu, nhóm của D thấy ông G có biểu hiện say xỉn và có lời lẽ khiêu khích, chửi bới nhóm của mình, nên D nói với ông B3 cho nhóm của D thuê chiếc loa về phòng để hát nhưng ông B không đồng ý và nói nhóm của D cứ ngồi chơi rồi ông B3 mở loa lên để cả nhóm hát Karaoke chung. Tiếp đó, khi cả nhóm đang hát Karaoke và ăn nhậu thì ông G tiếp tục chửi bới và có những lời lẽ khiêu khích nên T nói với ông G “anh lớn rồi, nhậu đừng có to tiếng ảnh hưởng đến người khác” thì ông G chỉ tay vào mặt T nói “mày im, mày không có quyền lên tiếng ở đây”. Nghe vậy T bực tức đứng dậy cầm 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ đang ngồi (loại ghế có tựa lưng, không có chỗ để tay hai bên, kích thước 65cm X 35cm) ném mạnh trúng vào vùng mặt của ông G gây thương tích. Thấy vậy, D cùng mọi người đứng dậy đẩy ông G và T ra (mục đích của D nhằm không để ông G đánh T), thì ông G tiêp tục nói “Tao thách tụi mày đánh tao đó”, nghe vậy, D liền cầm 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ đang ngồi (loại có tựa lưng và chỗ để tay hai bên, kích thước 70cm X 55cm) đánh 01 cái theo hướng từ trên xuống dưới trúng vùng đầu của ông G, gây thương tích. Thấy ông G bị thương tích chảy máu ở vùng đầu và mặt, nên T, D, anh C và anh H bỏ về phòng trọ của D, còn ông G được người dân đưa đi chữa trị thương tích tại Bệnh viện đa khoa vùng Tây Nguyên. Ngày 14/9/2020, ông Trương G làm đơn yêu cầu giám định thương tích và yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc trên.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 1235/TgT-TTPY ngày 30/11/2020 và Công văn giải thích tỷ lệ thương tích số 90/CV-TTPY ngày 16/4/2021 của Trung tâm Pháp Y tỉnh Đắk Lắk kết luận ông Trương G bị:

- Vết thương để lại sẹo giữa đỉnh đầu phía trước dạng chữ V mở ra sau, cách chân tóc trán 10cm có kích thước 5cm X 0,3cm. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 02% (Hai phần trăm).

- Vết thương để lại sẹo hơi chéo vùng tháp mũi bên phải, kích thước 2,5cm X 0,2cm, thâm quanh sẹo. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 03% (Ba phần trăm).

- Gãy xương chính mũi. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 08% (Tám phần trăm).

Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%, trong đó: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích vùng mũi là 11% (mười một phần trăm) Vật tác động: Vật tày có cạnh. Cơ chế hình thành vết thương:

- Vết thương để lại sẹo hơi chéo vùng tháp mũi bên phải; Gãy xương chính mũi là do tác động trực tiếp của vật tày có cạnh hướng từ trước ra sau, trên xuống dưới, phải qua trái.

- Vết thương để lại sẹo giữa đỉnh đầu phía trước dạng chữ V là do tác động trực tiếp của vật tày có cạnh hướng từ trước ra sau, trên xuống dưới.

Tại bản Kết luận giám định pháp y tâm thần số 167/KLGĐ ngày 23/9/2021 của Trung tâm Pháp Y tâm thần khu vực Tây Nguyên, kết luận về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của ông Trương G:

Kết luận về y học: Trước, sau khi bị đánh gây thương tích ngày 15/8/2020 và hiện tại: Rối loạn nhân cách thực ổn (F07.0-ICD10); Trong khi bị đánh gây thương tích ngày 15/8/2020 bị hại: Rối loạn nhân cách thực ổn (F07.0-ICD10) + sử dụng rượu.

Kết luận về khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi: Trước, trong, sau khi bị đánh gây thương tích ngày 15/8/2020 và hiện tại bị hại: Hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi.

Cáo trạng số 344/CT-VKS TP.BMT ngày 13 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân TP. Buôn Ma Thuột truy tố các bị cáo Ngô Đức T và Lê Trung D về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 343/2021/HSST ngày 11/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột đã quyết định:

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

- Tuyên bố: Các bị cáo Ngô Đức T và Lê Trung D(Tên gọi khác: Rin) phạm tội “Cố ý gây thương tích”

+ Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Đức T 02 (Hai) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trung D 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo của theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/11/2021 bị cáo Lê Trung D làm đơn kháng cáo với nội dung xin được giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo; ngày 24/11/2021 bị cáo Ngô Đức T kháng cáo xin hưởng án treo.

Ngày 15/12/2021 bị cáo Lê Trung D có đơn xin rút đơn kháng cáo, ngày 16/02/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đối với bị cáo Lê Trung D, bản án hình sự sơ thẩm số: 343/2021/HS-ST ngày 11/11/2021 của Tòa án nhân dân Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đối với bị cáo Lê Trung D có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 16/02/2022.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T bổ sung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo; đồng thời khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm cũng như lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Ngô Đức T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm 09 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Do vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Đức T áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự – Sửa Bản án sơ thẩm số 343/2021/HSST ngày 11/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 54 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo T 01 năm 09 tháng tù.

Đối với bị cáo Lê Trung D ngày 15/12/2021 bị cáo Lê Trung D có đơn xin rút đơn kháng cáo, ngày 16/02/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đối với bị cáo Lê Trung D. Tuy nhiên bản án sơ thẩm áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự xử phạt đối với bị cáo Lê Trung D 02 năm 06 tháng tù là không đúng, mức hình phạt mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Lê Trung D 02 năm 06 tháng tù là nghiêm khắc, vì bị cáo chỉ gây thương tích cho người bị hại 2%. Mặc dù bị cáo đã rút đơn kháng cáo nhưng cũng cần xem xét cho bị cáo, áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự – Sửa Bản án sơ thẩm số 343/2021/HSST ngày 11/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột. Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo D 06 tháng tù.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Tại phiên tòa phúc thẩm Luật sư bào chữa bảo vệ quyền lợi cho bị cáo T cho rằng: Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo T theo điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS là chưa đúng vì bị cáo gây thương tích cho người bị hại tổng tỉ lệ thương tích là 11% nhưng chưa được trừ lùi thương tích theo quy định nên đề nghị HĐXX xem xét. Mặt khác, bị cáo phạm tội do có lỗi của người bị hại. Sau khi phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường cho người bị hại được người bị hại làm đơn bãi nại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị HĐXX áp dụng thêm Điều 54, Điều 65 BLHS để giảm nhẹ dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo vì bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và hoàn cảnh gia đình khó khăn.

Bị cáo không tranh luận gì thêm chỉ đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo vì hoàn cảnh gia dình khó khăn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 50 phút ngày 15/8/2020, tại phòng trọ số 09 thuộc dãy trọ địa chỉ: 97 PNL, phường TC, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, do mâu thuẫn cá nhân, bực tức việc bị ông Trương G chửi bới và có những lời lẽ khiêu khích nên bị cáo Ngô Đức T đã sử dụng 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ (loại ghế có tựa lưng, không có chỗ để tay hai bên, kích thước 65cm X 35cm) ném trúng vùng mặt của ông Trương G và bị cáo Lê Trung D sử dụng 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ (loại có tựa lưng và chồ để tay hai bên, kích thước 70cm X 55cm) đánh vào vùng đầu của ông Trương G gây thương tích. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên của ông Trương G là 13%. Như vậy, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Ngô Đức T, Lê Trung D về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp lý, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2]. Xét kháng cáo của bị cáo Ngô Đức T, HĐXX xét thấy: Bị cáo Ngô Đức T là người đầu tiên đánh bị hại và cùng với Lê Trung D gây thương tích cho bị hại với tổng tỷ lệ là 13%, bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng là gây thương tích đối với người bị hạn chế khả năng nhận thức và hạn chế khả năng điều khiển hành vi theo quy định tại điểm k khoản 1 Điều 52 BLHS. Xét mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù mà Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 02 năm 09 tháng tù là có phần nghiêm khắc, vụ án xảy ra người bị hại cũng có một phần lỗi là chửi bới, có lời lẽ khiêu khích các bị cáo trước. Do vậy cần chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Ngô Đức T – Sửa Bản án sơ thẩm số 343/2021/HSST ngày 11/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột để giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Đối với bị cáo Lê Trung D ngày 15/12/2021 bị cáo Lê Trung D có đơn xin rút đơn kháng cáo, ngày 16/02/2022 Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án đối với bị cáo Lê Trung D. Tuy nhiên mức hình phạt mà cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo Lê Trung D02 năm 06 tháng tù là có phần nghiêm khắc, nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt cho bị cáo D.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng thêm Điều 54 BLHS để xử phạt bị cáo T dưới khung hình phạt và đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134 BLHS đối với bị cáo D; Luật sư đề nghị HĐXX áp dụng thêm Điều 54, Điều 65 BLHS để xử phạt bị cáo T dưới khung hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo là không có căn cứ Hội đồng xét xử không chấp nhận. Bởi lẽ, bị cáo Ngô Đức T và bị cáo Lê Trung D cùng gây thương tích cho bị hại với tổng tỷ lệ là 13% trong một thời gian, ở vùng đầu và vùng mặt (Mũi), cùng sử dụng ghế nhựa nên không thể tách bạch, riêng lẽ cụ thể ai là người gây thương tích cho người bị hại bao nhiêu phần trăm thương tích, các bị cáo phải chịu hậu quả chung trong tổng tỉ lệ thương tích mà các bị cáo gây ra cho người bị hại. Do đó bản án sơ thẩm áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS để xét xử đối với các bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

[3]. Về án phí phúc thẩm: Do được chấp nhận một phần kháng cáo nên bị cáo Ngô Đức T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự;

[1]. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Ngô Đức T – Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 343/2021/HSST ngày 11/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột về hình phạt.

[2]. Về điều luật áp dụng và hình phạt:

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm k khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Ngô Đức T 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

Xử phạt: Bị cáo Lê Trung D 02 (hai) tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày bắt thi hành án.

[3]. Về án phí: Các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[4]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

406
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 74/2022/HSPT

Số hiệu:74/2022/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về