Bản án về tội cố ý gây thương tích số 66/2024/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 66/2024/HS-PT NGÀY 23/04/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 23 tháng 4 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hoá mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 93/2024/TLPT-HS ngày 20 tháng 3 năm 2024. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 87/2024/QĐXXPT-HS ngày 05 tháng 4 năm 2024. Do Bản án sơ thẩm số 105/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá bị kháng cáo.

* Bị cáo kháng cáo:

Họ và tên: Vũ Văn H, tên gọi khác: Không - Sinh năm 1988 tại Thanh Hóa.

Nơi ĐKHK thường trú: số nhà H ngõ Đ, phường B, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: Lô 326 LC 09 MBQH 1413 phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Vũ Văn C (SN 1963) và bà Lê Thị X (SN 1969); Có vợ là Vũ Thị H1 (SN 1990) và có 02 con sinh đôi (đều SN 2019); Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không. Bị cáo đang áp dụng biện pháp ngăn chặn “Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú” (có mặt).

* Bị hại (không kháng cáo):

1. Anh Mai Việt M (SN 1995). Nơi thường trú: S N, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa. Nơi ở hiện nay: số nhà B H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

2. Bà Nguyễn Thị M1 (SN 1969). Địa chỉ: Số nhà D H, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt).

* Người làm chứng (đều vắng mặt):

1. Ông Lê Văn S (SN 1972). Nơi thường trú: số nhà A đường L, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

2. Bà Nguyễn Thị H2, sinh năm 1958. Nơi thường trú: 0 N, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: D T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

3. Anh Lê Văn Đ, sinh năm 1997. Nơi thường trú: số nhà F H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

4. Anh Lê Văn C1, sinh năm 1990. Nơi thường trú: số nhà D H, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

5. Anh Lê Hoa L, sinh năm 2004. Nơi thường trú: số nhà B hạc T, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

6. Bà Lê Thị M2, sinh năm 1967. Nơi thường trú: 02/130 T, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: D A, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

7. Anh Mai Việt D, sinh năm 1983. Nơi thường trú: 0 N, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Nơi ở hiện nay: D T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Chiều ngày 16/05/2023, Vũ Văn H cùng với Nguyễn Thị M1 (SN 1969), Lê Văn C1 (SN 1990), cùng trú tại D H, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Lê Văn S (SN 1972), trú tại A L, phường L, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa; Lê Văn Đ (SN 1997), trú tại 0 H, phường Đ, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa đến nhà bà Lê Thị M2 (SN 1967), trú tại D T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa để ăn giỗ. Đến khoảng 20h15’ cùng ngày, Vũ Văn H và Lê Văn Đ đi sang lô đất trống cạnh nhà Mai Việt H3 (đối diện nhà bà M2) để đi vệ sinh thì bị H3 chửi bới, dẫn đến mâu thuẫn, hai bên dùng tay chân đánh nhau. H3 lấy ở trước nhà một thanh sắt dài khoảng 01m đánh H nhưng không trúng. H dùng tay chân đánh lại H3, còn Lê Văn Đ dùng ống điếu lấy ở trước cửa nhà bà M2 đập H3 một cái vào trán, thì được mọi người can ngăn nên hai bên quay vào nhà. H3 tiếp tục lên tầng 2 nhà mình dùng bát đĩa ném về phía nhà bà M2 nhưng không trúng ai, hai bên lại chửi bới, xô xát. Vài phút sau, Mai Việt M (SN 1995), trú tại số nhà A N, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa (em trai H3); Lê Hoa L (SN 2004), trú tại 2 H, phường T, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa (cháu rể H3) về nhà, hai bên tiếp tục chửi bới và lao vào đánh nhau. Mai Việt H3 chạy vào nhà cầm một cốc thủy tinh chạy ra, đập vào đầu bà M1, làm bà M1 ngã ra đường. Thấy mẹ mình bị H3 đánh, Lê Văn C1 chạy vào nhà bà M2 cầm một con dao chạy ra thì được bà M1 và mọi người can ngăn. Mai Việt M vào nhà cầm một vợt tennis, một con dao đi ra, dùng vợt tennis vụt hai cái vào đầu H. L cầm một gậy sắt lấy từ nhà H3 đi ra nhưng không đánh ai. Thấy H bị đánh, ông Lê Văn S lại can ngăn, trong quá trình can ngăn ông S do đang cầm điếu cày trên tay (điếu cày ông S giật được từ người khác) vung trúng vào người M, M tưởng ông S đánh mình nên giữa M và ông S giằng co, xô đẩy nhau, con dao M đang cầm trên tay quặc vào gò má ông S làm rách da chảy máu. Sau đó, M đi vào nhà, Lê Hoa L lấy con dao từ tay M và cầm thêm một con dao dưới nền nhà cùng M đi ra ngoài. Bị M đánh chảy máu, H chạy vào nhà bà M2 cầm một chai thủy tinh ra ném thì trúng vào đầu M.

Hậu quả: Vũ Văn H, Mai Việt M, Nguyễn Thị M1, Lê Văn S, Nguyễn Thị H2, Mai Việt H3 bị thương tích cụ thể như sau:

* Đối với thương tích của Mai Việt M: 01 vết thương vùng trán trái kích thước 5x1 cm; 01 vết bầm sưng nề quanh cổ và 01 vết trầy xước gót chân trái.

Kết quả chụp City sọ não: Hình ảnh máu tụ ngoài màng cứng dày 8mm, kèm khí, vài ổ dập não thùy trán trái vỡ xương hộp sọ có mảnh xương gắn vào nhu mô não.

Tại bản Kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 873/KLTTCT-PYTH ngày 12/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Mai Việt M tại thời điểm giám định là 45%.

Tại bản Kểt luận giám định vật gây thương thương tích số: 980/KLVGTT-PYTH, ngày 12/06/2023 của Trung tâm P kết luận: Thương tích của M do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật tày có cạnh, hoặc vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn.

* Đi với thương tích của Vũ Văn H: 01 vết thương vùng trán đỉnh, kích thước khoảng 3x1 cm chảy máu, mép nham nhở; 01 vết thương ngón hai bàn tay phải, kích thưởng khoảng 0,5x1 cm; 01 vết thương gan bàn chân phải, kích thước khoảng 1x0,5cm sưng thâm ngón I,II,III bàn chân trái và 01 vết thương tại vùng đỉnh đầu phía trước, dài khoảng 03 cm chảy máu.

Tại Bản Kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 902/KLTTCT-PYTH ngày 12/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Vũ Văn H tại thời điểm giám định là 10%.

Kết luận giám định vật gây thương thương tích số: 903/KLVGTT-PYTH, ngày 14/06/2023 của Trung tâm P kết luận: Các vết thương do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật tày có cạnh, hoặc vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn.

* Đối với thương tích của Nguyễn Thị M1: Vùng trán đỉnh trái có 01 vết thương rách da dài 03 cm không nham nhở bờ sắc gọn gây chảy máu.

Tại Bản Kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 904/KLTTCT-PYTH ngày 16/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị M1 tại thời điểm giám định là 11%.

Tại bản Kết luận giám định vật gây thương thương tích số: 905/KLVGTT-PYTH, ngày 20/06/2023 của Trung tâm P kết luận: Thương tích của bà M1 là do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật có cạnh sắc hoặc vật có cạnh sắc nhọn.

* Đối với thương tích của Lê Văn S: 01 vết thương tại gò má bên trái kích thước 1x2 cm, mép nham nhở chảy máu.

Tại Bản Kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 900/KLTTCT-PYTH ngày 13/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Lê Văn S tại thời điểm giám định là 03%.

Tại bản Kết luận giám định vật gây thương tích số: 901/KLVGTT-PYTH, ngày 14/06/2023 của Trung tâm P kết luận: Vết thương của ông S là do tác động của ngoại lực; tạo nên bởi vật tày có cạnh.

* Đối với thương tích của Nguyễn Thị H2: 01 vết xước da kích thước 2x2cm tại khuỷu tay phải và 01 vết rách da chảy máu ở ngón út tay trái.

Tại Bản Kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 1081/KLTTCT-PYTH ngày 29/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Nguyễn Thị H2 tại thời điểm giám định là 04%.

* Đối với thương tích của Mai Việt H3: 01 vết xước da sưng bầm tại trán trên đầu lông mày trái 3 cm kích thước khoảng 1x2 cm và 01 vết xước da ở đầu gối trái kích thước 2x3 cm.

Tại Bản Kết luận giám định tổn thương trên cơ thể người sống số 1083/KLTTCT-PYTH ngày 26/6/2023 của Trung tâm pháp y tỉnh T kết luận: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Mai Việt H3 tại thời điểm giám định là 01%.

* Vật chứng thu giữ gồm: 01 chiếc điếu cày dài 60cm bị vỡ nát phần đuôi điếu; 01 chiếc điếu cày dài 55 cm bị vỡ; 01 thanh kim loại hình tròn dài 100cm, đường kính 1,5cm; 01 thanh kim loại hình tròn dài 100cm,đường kính 3cm; 01 con dao thái dài 40cm, cán dao dài 10cm, thân dao bản rộng 6cm; 01 con dao dài 30cm, cán dao dài 15 cm bằng gỗ, thân dao 15 cm, bản rộng 3 cm; 01 con dao cán bằng nhựa dài khoảng 35 cm, mũi dao bằng bề rộng thân dao khoảng 3cm, phần cán bằng nhựa màu xanh dài khoảng 8cm; 01 con dao cán bằng gỗ dài khoảng 35 cm, mũi dao bằng bề rộng thân dao khoảng 3 cm, phần cán bằng gỗ dài khoảng 12cm; 01 vỏ chai thủy tinh màu đen cao 31 cm, nhãn hiệu Sole D’Talia, dung tích 750ml và các mảnh thủy tinh vỡ thu giữ tại hiện trường.

- Đối với 01 vợt tennis không thu giữ được tại hiện trường, Cơ quan Điều tra đã ra quyết định truy tìm vật chứng nhưng không có kết quả.

- Đối với 01 con dao cán bằng nhựa dài khoảng 35cm; 01 con dao cán bằng gỗ dài khoảng 3 5cm; 01 điếu cày dài 60cm, bị vỡ nát phần đuôi điếu; 01 chiếc điếu cày dài 55 cm bị vỡ; 01 thanh kim loại hình tròn dài 100cm đường kính 1,5cm; 01 thanh kim loại hình tròn dài 100cm, đường kính 3cm; 01 con dao thái dài 40cm; 01 con dao dài 30cm; các mảnh thủy tinh vỡ thu giữ được tại hiện trường do không phải là vật chứng của vụ án nên chuyển Công an thành phố T xử lý theo quy định của pháp luật.

- Đối với vật chứng là 01 vỏ chai thủy tinh màu đen được chuyển đến Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố Thanh Hóa để xử lý theo quy định pháp luật.

* Về trách nhiệm dân sự: Vũ Văn H đã bồi thường cho bị hại M3 Việt Mạnh số tiền là 45.000.000đ (bốn lăm triệu đồng), Mai Việt M đã nhận đủ số tiền và không có đề nghị gì khác. Tại giai đoạn điều tra bị hại bà Nguyễn Thị M1 không yêu cầu bị cáo Mai Việt H3 bồi thường về dân sự. Đối với thương tích của Mai Việt H3 do Lê Văn Đ gây nên, H3 có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, không yêu cầu bồi thường gì về dân sự. Đối với thương tích của Vũ Văn H do Mai Việt M gây nên, H có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự, không yêu cầu bồi thường gì về dân sự. Đối với thương tích của ông Lê Văn S, bà Nguyễn Thị H2 được gây nên trong quá trình can ngăn, ông S và bà H2 đã có đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và không có đề nghị gì về thương tích của mình.

Bản án sơ thẩm số 105/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá đã căn cứ: Điểm c khoản 3 Điều 134; Điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật Hình sự (BLHS). Khoản 1, điểm a, c khoản 2 Điều 106, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS); Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”. Xử phạt Vũ Văn H 05 (năm) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án. Ghi nhận sự thoả thuận bồi thường dân sự giữa bị cáo và người bị hại. Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt tù đối với bị cáo khác không kháng cáo, nghĩa vụ thi hành án, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 29/01/2024, bị cáo Vũ Văn H có đơn kháng cáo đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh xem xét cho bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung của bản án sơ thẩm đã tuyên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Xét về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo trong thời hạn theo quy định tại Điều 333 BLTTHS, nên được coi là hợp pháp. Do vậy, HĐXX chấp nhận đơn của bị cáo để xem xét nội dung kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo đã thành khẩn khai báo và thừa nhận hành vi phạm tội của mình, cụ thể:

Khoảng 20h30' ngày 16/5/2023, tại vị trí trước số nhà D T, phường N, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa, xuất phát từ mâu thuẫn nhỏ Vũ Văn H đi sang lô đất trống cạnh nhà Mai Việt H3 để đi vệ sinh thì bị H3 chửi bới, dẫn đến hai bên dùng tay chân đánh nhau. H3 lấy ở trước nhà một thanh sắt dài khoảng 01m đánh H nhưng không trúng. Một lúc sau Mai Việt M (em trai của H3) về nhà, hai bên tiếp tục chửi bới và lao vào đánh nhau, M đã vào nhà cầm một vợt tennis và một con dao đi ra, dùng vợt tennis vụt hai cái vào đầu H. Bị M đánh chảy máu, H chạy vào nhà bà M2 cầm một chai thủy tinh (là hung khí nguy hiểm) ném vào đầu Mai Việt M. Kết luận giám định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của Mai Việt M là 45%.

Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ, bị cáo đã dùng chai thủy tinh là “hung khí nguy hiểm” để gây thương tích cho bị hại anh M3 Việt Mạnh với tổn hại 45% sức khoẻ. Hành vi của bị cáo không những trực tiếp xâm hại tới quyền được bảo vệ về sức khỏe của công dân mà còn làm mất trật tự trị an, an toàn xã hội ở địa phương, gây dư luận xấu trong quần chúng nhân dân. Lời thừa nhận về hành vi phạm tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại, người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa nên HĐXX có căn cứ khẳng định hành vi phạm tội của bị cáo đủ dấu hiệu cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của BLHS. cấp sơ thẩm đã xác định tội danh và khung hình phạt cho bị cáo là có cơ sở pháp luật.

[3] Xét kháng cáo xỉn giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo của bị cáo:

[3.1]. Nhận thấy, khi lượng hình cấp sơ thẩm có xem xét, đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả cho bị hại, anh M không có yêu cầu gì khác về phần dân sự. Tại giai đoạn điều tra và tại phiên toà sơ thẩm bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Vì vậy được áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Các tình tiết giảm nhẹ nói trên cấp sơ thẩm áp dụng là phù hợp với quy định của pháp luật. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.2] Tại cấp phúc thẩm, bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, cụ thể: Bị cáo cung cấp cho Toà án “Đơn xin xác nhận” bố đẻ bị cáo là ông Vũ Văn C quá trình sinh sống tại địa phương có nhiều thành tích xuất sắc được UBND phường B, thành phố T tặng thưởng nhiều giấy khen và cung cấp “Đơn đề nghị xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự” với nội dung gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, có 02 con đang còn nhỏ (sinh đôi) năm 2019, vợ không có công việc hay thu nhập ổn định, bố mẹ đẻ già yếu, bản thân đang là lao động chính trong gia đình. Có ông ngoại là thương binh và là người có công với cách mạng được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến thắng và nhiều giấy khen. Chính quyền địa phương xác nhận và đề nghị Toà án tỉnh Thanh Hoá xem xét. Hơn nữa bị cáo phạm tội cũng có phần lỗi của người bị hại, bị hại đã dùng vợt vợt tennis vụt hai cái vào đầu bị cáo trước, làm bị cáo bị thương tích theo kết luận giám định bị tổn thương cơ thể 10% nên bị cáo bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra tuy nhiên không thuộc trường hợp tinh thần bị kích động mạnh hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng. Tình tiết này cấp sơ thẩm chưa áp dụng cho bị cáo là thiếu sót. HĐXX cần áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm e khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS cho bị cáo khi xét nội dung kháng cáo.

[3.3] Xét nguyên nhân, điều kiện hoàn cảnh gia đình, hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. HĐXX cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo. Mặc dù tại cấp phúc thẩm có thêm nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới, song hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, thương tích gây ra cũng như di chứng để lại đối với bị hại là lớn nên cần tiếp tục cách ly ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên HĐXX cần chấp nhận một phần kháng cáo, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo thấy được tính nhân đạo của Nhà nước và sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo sớm trở về với gia đình, xã hội.

[3.4] Từ phân tích và nhận định nêu trên, HĐXX nhận thấy, kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Văn H là có cơ sở chấp nhận. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá đề nghị HĐXX áp dụng Điều 357 của BLTTHS, chấp nhận phần kháng cáo xin giảm nhẹ của bị cáo, sửa phần hình phạt của Bản án sơ thẩm là có căn cứ pháp luật.

[4] Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vũ Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo được chấp nhận một phần.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không kháng cáo, không bị kháng nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Chấp nhận phần kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vũ Văn H. Sửa bản án Hình sự sơ thẩm số 105/2024/HS-ST ngày 24 tháng 01 năm 2024 của Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá, tỉnh Thanh Hoá.

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn H phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: Điểm c khoản 3 Điều 134; Điểm b, e, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định mức thu, miễn giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn H 36 (ba sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Vũ Văn H không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 66/2024/HS-PT

Số hiệu:66/2024/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:23/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về