Bản án về tội cố ý gây thương tích số 65/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẦN THƠ

BẢN ÁN 65/2023/HS-PT NGÀY 09/11/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 09 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố C xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số:

124/2023/TLPT-HS ngày 03 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Huỳnh Thị Tố Q do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HS-ST ngày 07/8/2023 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố C.

- Bị cáo có kháng cáo:

Huỳnh Thị Tố Q, sinh năm 1987 tại Kiên Giang. Nơi cư trú: khu vực Y, phường L, quận Cái Răng, thành phố C. Giới tính: nữ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 5/12; nghề nghiệp: mua bán. Con ông Huỳnh Thông M, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1968; có chồng là Cao Quốc T, sinh năm 1986 (đã ly hôn); có 03 con, lớn nhất sinh năm 2011, nhỏ nhất sinh năm 2017. Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo tại ngoại và có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Lê Văn C – Văn phòng luật sư C, Đoàn luật sư thành phố C.

Trong vụ án, còn có bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo, không liên quan đến kháng cáo nên Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 06 giờ 30 phút ngày 11/01/2023, Công an phường Long Tuyền, quận B, thành phố C nhận được tin báo về việc Cao Quốc T bị vợ là Huỳnh Thị Tố Q tạt axit gây bỏng trên cơ thể nên tiến hành đến hiện trường xác minh. Quá trình kiểm tra xác định nơi xảy ra sự việc là trên đường bê tông 04 mét, gần cầu Nông Dân thuộc tổ 7, khu vực Bình Thường A, phường Long Tuyền, quận B, thành phố C, phát hiện và ghi nhận tại hiện trường có một xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đỏ biển số 65H9-xxxx, trên xe có một nón bảo hiểm màu đen, mặt ngoài nón có vết chất lỏng, cạnh xe có hai chiếc dép loại quai ngang, màu đen và một nón lưỡi trai màu đen có vết tím nhạt, một tờ giấy bị than hoá một phần giấy bị biến dạng, một áo thun ngắn tay, màu trắng đen bị biến dạng trên áo có nhiều lỗ nhỏ, một bìa sơ mi A4 màu trắng, một túi xách màu nâu, mặt ngoài có nhiều chữ nhỏ “L&V” kích thước 40x29, 02 ca nhựa không có nắp, một ca bên trong có ít chất lỏng, ca còn lại khô, 02 chai thuỷ tinh bên ngoài ghi chữ “sulfuric acid (H2SO4) dung tích 500ml”, găng tay y tế màu trắng, hai găng tay cao su màu xanh dương, hai nắp nhựa màu xanh dương, 03 vết chất lỏng thu bằng bông gòn, 01 mảnh vải bị than hoá biến dạng nên đã lập biên bản thu giữ.

Tiến hành mời Huỳnh Thị Tố Q làm việc, Q khai nhận: Q và T là vợ chồng, trong quá trình chung sống đã xảy ra mâu thuẫn nên đã sống ly thân từ năm 2022. Ngày 09/01/2023, Q nghe thông tin T yêu người phụ nữ khác nên đi gặp và khuyên ngăn T nhưng không được nên tức giận và nảy sinh ý định gây thương tích bằng axit để T xấu đi và không có người phụ nữ nào thích nữa. Q đã điều khiển xe mô tô đi tìm chỗ bán axit nhưng do không tìm được chỗ bán nên quay về. Trên đường đi về nhà khi đến đoạn đường 30/4 thuộc quận Ninh Kiều thì Q gặp người đàn ông chạy xe ôm (không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể) đang đậu chờ khách cặp lề đường nên nhờ người này mua dùm axit. Q nói với người này mua về đổ vô bình ắc quy nên người đàn ông đồng ý mua dùm và kêu người này giao cho Q ở đầu hẻm 8 đường Phạm Hùng thuộc phường Lê Bình, quận Cái Răng. Sau đó, Q tiếp tục ghé vào chợ Cái Răng mua hai ca nhựa có nắp đậy, 02 cặp bao tay y tế màu trắng và 01 cặp bao tay nhựa màu xanh rồi đi về nhà. Khoảng 16 giờ cùng ngày người đàn ông chạy xe ôm giao cho Q 6 chai axit, Q trả cho người đàn ông số tiền 480.000 đồng và tiền công là 300.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, Q gọi điện thoại hẹn T sáng ngày 11/01/2023 ra cầu Nông Dân để gặp mặt và ký đơn ly hôn.

Khoảng 05 giờ ngày 11/01/2023, Q lấy 03 chai axit, hai ca nhựa và 03 bao tay đã mua để vào túi xách và đi bộ ra đầu hẻm 8 khu vực Yên Hòa, phường Lê Bình, quận Cái Răng thuê xe đi đến gặp T. Khi đến quán cà phê Thủy Mộc đối diện hẻm 8, Q định uống cà phê thì gặp người đàn ông khoảng 30 tuổi ngồi trong quán, Q hỏi người này “có chạy xe không” thì người này trả lời có, người đàn ông đồng ý chở Q đi với giá 300.000 đồng. Khi đi đến cầu Nông Dân thì Q kêu người đàn ông chạy xe cách chỗ Q khoảng 4-5 mét rồi đậu chờ Q. Lúc này, Q lấy cặp bao tay màu trắng đã chuẩn bị đeo vào tay rồi mở nắp chai axit đổ hết vào ca nhựa rồi đậy nắp lại, Q ném bỏ nắp và vỏ chai đựng axit xuống mé sông gần chỗ Q đứng rồi đeo bao tay vải hai tay để che bao tay y tế. Sau đó, Q để ca nhựa chứa axit cạnh túi xách đứng chờ T. Khi anh T điều khiển xe mô tô biển số 65H9-xxxx đến thì Q đưa cho T đơn ly hôn từ trong túi xách cho T đọc, trong lúc T đang đọc thì Q cầm ca nhựa đựng axit đã chuẩn bị sẵn, mở nắp ca và hất vào người của T. Lúc này T nhìn thấy nên dùng tay và sơ mi nhựa để che thì làm cho axit văng trúng nhiều chỗ trên cơ thể của T. Sau khi tạt axit, Q bỏ chạy đến chỗ người chạy xe ôm và kêu người này chở Q về nhà. Trên đường đi thì Q tháo bao tay nhựa đang đeo ném bỏ ở lề lộ cặp đường. Khi về đến đầu hẻm 8 đường Phạm Hùng thì Q xuống xe và trả tiền cho người chạy xe ôm rồi đi bộ về nhà. Sau đó, Công an mời lên làm việc Q đã khai nhận toàn bộ hành vi.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 87/TgT ngày 28/02/2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế thành phố C kết luận đối với tỷ lệ thương tích của Cao Quốc T như sau:

1. Dấu vết chính qua giám định:

- Các vết bỏng da vùng mặt, tai trái, vùng cổ và cánh - cẳng tay hai bên đang được điều trị. Hiện tại các vết bỏng da chưa lành, còn rỉ dịch, hoại tử mức độ nặng, vành tai trái bị biến dạng mất mô trên 2/3.

- Các vết bỏng da vùng ngực trái, vùng lưng, mặt trước 1/3 dưới đùi phải và mặt ngoài 1/3 trên đùi trái đang được điều trị. Hiện tại các vết bỏng da chưa lành, không ảnh hưởng chức năng.

Tổng diện tích bỏng chiếm 14% diện tích cơ thể.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 37%.

3. Cơ chế: các thương tích trên cơ thể của ông Cao Quốc T phù hợp với cơ chế bỏng do chất lỏng gây nên.

Tại kết luận giám định số 49/KL-KTHS ngày 28/02/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an thành phố C kết luận về đối tượng giám định:

Mẫu 1: Mẫu M1a, M1b gửi giám định có thành phần axit, loại H2SO4. Mẫu 2: Mẫu M2 gửi giám định có thành phần axit, loại H2SO4..

Mẫu 3: Mẫu M3a, M3b, M3c gửi giám định có thành phần axit H2SO4. Mẫu 4: Mẫu M4a, M4c gửi giám định không tìm thấy thành phần axit. Mẫu M4b, M4d gửi giám định có thành phần axit, loại H2SO4..

Mẫu 5: Mẫu M5a, M5b gửi giám định có thành phần axit, loại H2SO4.

Mẫu 6: Mẫu 6a gửi giám định không tìm thấy thành phần axit. Mẫu 6b gửi giám định có thành phần axit, loại H2SO4.

Mẫu 7: Mẫu M7a, M7b không tìm thấy thành phần axit.

Tại Công văn số 68/TTPY-GĐTH ngày 14/3/2023 của Trung tâm pháp y trả lời Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Thuỷ, thành phố C xác định: “Những loại chất lỏng có thể gây nên thương tích của ông Cao Quốc T như acid, bazơ, chất lỏng ở nhiệt độ cao....” Đối với xe mô tô biển số 65H9-xxxx qua xác minh chủ sở hữu là ông Huỳnh Thông M. Trong quá trình sử dụng xe mô tô, ông M đã cho Cao Quốc T mượn xe mô tô để đi lại. Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại xe mô tô cho ông M và ông không yêu cầu gì thêm.

Bị hại Cao Quốc T đã làm đơn xin rút yêu cầu khởi tố vụ án và xin giảm nhẹ hình phạt đối với Huỳnh Thị Tố Q, không yêu cầu bồi thường chi phí điều trị.

Đối với người đàn ông đã mua axit dùm cho Q do không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra đang tiếp tục xác minh làm rõ.

Đối với người đàn ông đã chở Q đi gây thương tích cho T, do không rõ họ tên và địa chỉ cụ thể nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh xử lý sau.

Tại bản án hình sự số 65/2023/HS-ST ngày 07/8/2023, Tòa án nhân dân quận B, thành phố C đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thị Tố Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Huỳnh Thị Tố Q 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi tuyên án sơ thẩm, ngày 16/8/2023 bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tội và vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo xin được xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm hòa nhập cộng đồng, có điều kiện chăm sóc các con chưa thành niên và cha mẹ già, đồng thời lao động tạo ra thu nhập để trả nợ vay của Ngân hàng.

Bào chữa cho bị cáo – Luật sư Lê văn C phát biểu: Thống nhất với tội danh và khung hình phạt cấp sơ thẩm đã truy tố, xét xử đối với bị cáo. Phân tích nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội có một phần từ lỗi của phía bị hại, phân tích các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự bị cáo được hưởng, thống nhất với đề nghị của Kiểm sát viên về việc áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Đề nghị xem xét hoàn cảnh gia đình của bị cáo cha mẹ đều có bệnh, sau khi ly hôn bị cáo đang trực tiếp nuôi 03 con đều chưa thành niên để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố C tham gia phiên tòa nhận định: Xét thấy nội dung vụ án đã được làm rõ theo hồ sơ vụ án, hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Cố ý gây thương tích với tình tiết định khung tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Khi lượng hình cấp sơ thẩm đã xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo. Tuy nhiên, bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại số tiền 150.000.000 đồng, bị hại cũng có đơn bãi nại cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo. Trên cơ sở bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đủ điều kiện áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để xử phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự chấp nhận kháng cáo, sửa án sơ thẩm để xử phạt bị cáo với mức hình phạt 04 năm 06 tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng cáo của bị cáo trong thời hạn luật định nên đủ điều kiện để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết theo quy định.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng và bản án sơ thẩm đã tuyên. Đối chiếu với tài liệu chứng cứ thể hiện trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Do mâu thuẫn trong mối quan hệ vợ chồng, bị cáo hẹn bị hại đến cầu Nông Dân để gặp mặt và ký đơn ly hôn. Khi bị hại đến chỗ hẹn, bị cáo đưa đơn ly hôn trong túi xách cho bị hại đọc, trong lúc bị hại đang đọc thì bị cáo cầm ca nhựa đựng axit đã chuẩn bị sẵn, mở nắp ca và hất vào người của bị hại gây thương tích. Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 87/TgT ngày 28/02/2023 của Trung tâm pháp y thuộc Sở Y tế thành phố C kết luận đối với tỷ lệ thương tích của bị hại như sau: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 37%; cơ chế hình thành các thương tích trên cơ thể phù hợp với cơ chế bỏng do chất lỏng gây nên. Với hành vi nêu trên và tỷ lệ thương tích của bị hại, cấp sơ thẩm truy tố, xét xử bị cáo về tội Cố ý gây thương tích với tình tiết định khung tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Bị cáo kháng cáo xin xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt đối với bị cáo. Hội đồng xét xử xét thấy:

[3.1] Bị cáo là người đã thành niên, có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, đủ nhận biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn bất chấp hậu quả, cố tình sử dụng axit nguy hiểm để gây thương tích cho bị hại. Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, tạo tâm lý hoang mang, bất ổn cho quần chúng nhân dân. Do đó cần có hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội có thời hạn để cải tạo, giáo dục là cần thiết, qua đó cũng nhằm đảm bảo tác dụng răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[3.2] Quá trình tố tụng, cấp sơ thẩm đã xem xét, đánh giá và áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bản thân bị cáo đang trực tiếp nuôi 03 con nhỏ, bị hại có đơn xin rút yêu cầu khởi tố, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự là phù hợp.

[3.3] Sau khi sự việc xảy ra, mặc dù người bị hại không có yêu cầu bồi thường nhưng bị cáo đã tự nguyện giao cho người bị hại số tiền 150.000.000 đồng để khắc phục hậu quả, người bị hại đã nhận đủ và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường thêm nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại đánh giá do không có căn cứ xác định cụ thể thiệt hại mà bị hại phải chịu để không áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả” tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là còn thiếu sót. Vì vậy, Kiểm sát viên đề nghị áp dụng áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cho bị cáo là có căn cứ để chấp nhận.

[3.3] Xét thấy bị cáo được hưởng hai tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 và một tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51; bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự và có nhân thân tốt. Người bị hại cũng tự nhận thấy có một phần lỗi dẫn đến việc bị cáo thực hiện hành vi phạm tội nên có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Bên cạnh đó việc bị cáo đang trực tiếp nuôi 03 người con đều chưa thành niên cũng là lý do để Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; vừa đảm bảo thời gian để bị cáo ăn năn hối lỗi đối với hành vi phạm tội của mình và qua đó thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật để bị cáo an tâm cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội.

[3.4] Từ những phân tích trên có cơ sở để chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và Luật sư bào chữa cho bị cáo về việc áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt cho bị cáo, theo đó chấp nhận kháng cáo xin giảm một phần hình phạt của bị cáo.

[4] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

[5] Về án phí phúc thẩm: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo không phải chịu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình  sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thị Tố Q. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 65/2023/HS - ST ngày 07 tháng 8 năm 2023 của Tòa án nhân dân quận B, thành phố C.

1. Tuyên bố: Bị cáo Huỳnh Thị Tố Q phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Căn cứ: điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt: bị cáo Huỳnh Thị Tố Q 04 (bốn) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

3. Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

4. Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

6
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 65/2023/HS-PT

Số hiệu:65/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/11/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về