Bản án về tội cố ý gây thương tích số 63/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 63/2022/HS-PT NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2022/TLPT-HS ngày 12 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo Nguyễn Việt Hồng P và Trịnh Quốc C, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

- Các bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Việt Hồng P, sinh ngày 01/11/1997, tại Hà Tiên, Kiên Giang; nơi cư trú: Tổ 5, khu phố 1, phường TC, thành phố HT, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Việt Hải và bà Trần Thị Oanh; vợ Trần Thị Ngọc Nhung, sinh năm 1997 và 01 con sinh năm 2020 (vợ và con mới phát sinh thêm sau); tiền án, tiền sự: Không; tạm giữ, tạm giam: Không, tuy nhiên đã vào trại chấp hành hình phạt tù theo Bản án hình sự phúc thẩm số 51/2021/HS-PT ngày 23/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang từ ngày 14/6/2021 đến ngày 14/3/2022, hiện tại ngoại (Có mặt tại phiên tòa).

2. Trịnh Quốc C, sinh ngày 03/9/1997, tại Hậu Lộc, Thanh Hóa; nơi cư trú: Tổ 4, khu phố 3, phường TC, thành phố HT, tỉnh Kiên Giang; nghề nghiệp: Kinh doanh; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trịnh Văn Hưng và bà Đào Thị Tính; vợ Phạm Thị Thúy An và 01 con sinh năm 2021 (vợ và con mới phát sinh thêm sau); tiền án, tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày 11/9/2019 được 1 tại ngoại, sau đó vào trại chấp hành hình phạt tù theo Bản án hình sự phúc thẩm số 51/2021/HS-PT ngày 23/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang từ ngày 04/6/2021 cho đến nay (Có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Ông Đỗ Minh N, sinh năm: 1974 (Vắng mặt, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt) Cư trú: Khu phố 4, phường TC, thành phố HT, tỉnh Kiên Giang.

(Ngoài ra trong vụ án còn có các bị cáo Phan Thành Th, Nguyễn Hữu T không có kháng cáo; không bị kháng cáo, kháng nghị nên Tòa án không triệu tập)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 07 giờ 30 phút ngày 24/12/2018, Trịnh Quốc C điều khiển xe mô tô chở Nguyễn Hữu Trung đi từ thành phố Hà Tiên đến huyện Kiên Lương để dán giấy quảng cáo hút hầm cầu. Đi đến Ba Hòn, huyện Kiên Lương, C nhìn thấy ông Đỗ Minh N và ông Lê Văn Tạo đang xé giấy quảng cáo của C. Thấy vậy, C chở Trung vào khu vực Nhà máy INSEE uống cà phê và điện thoại cho Nguyễn Hoàng Thiện kêu Thiện chở Sơn (bạn của C) xuống Bình An, huyện Kiên Lương làm tiếp nhưng Sơn không có ở nhà nên C kêu Hoàng Thiện đi xuống một mình. C tiếp tục điện thoại cho Phan Thành Thiện và Nguyễn Việt Hồng P kêu xuống Kiên Lương làm tiếp, có hung khí gì thì mang theo. Sau đó Thành Thiện chở P xuống gặp C ở quán cà phê, khi đi P có mang theo dao tự chế. Trong lúc đợi Hoàng Thiện xuống, C đã bàn bạc với Trung, Thành Thiện và P đi tìm ông N để Trung đánh trả thù (do trước đó giữa C và T có mâu thuẫn với ông N về việc cạnh tranh kinh doanh hút hầm cầu), nếu Trung đánh không lại thì Thành Thiện và P vào đánh tiếp. Khi Hoàng Thiện xuống tới thì C kêu Hoàng Thiện chở Trung đồng thời đưa cho Trung cây gậy bằng kim loại ba khúc để Trung đánh ông N, còn Thành Thiện thì chở P đi theo Trung (do chỉ có Trung mới biết mặt của ông N). Cả nhóm chạy cùng với nhau đến chợ Bình An, huyện Kiên Lương thì C rẽ vào chợ, còn Trung, Hoàng Thiện, Thành Thiện và P tiếp tục chạy vòng qua xã Bình Trị hướng về Bình An. Sợ Trung đi lạc nên C chạy vào hướng Bình Trị để tìm Trung. Đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, C đi đến tổ 06, ấp Bình Đông, xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang thì phát hiện ông N đang chở ông Tạo lưu thông ngược chiều. Đồng thời C nhìn thấy Hoàng Thiện chở Trung, Thành Thiện chở Pt đang chạy phía sau ông N nên chỉ tay về phía sau (ra hiệu) cho Trung biết ông N đang chạy phía trước, còn C thì bỏ chạy về Hà Tiên. Lúc này Trung liền quay sang nói cho Thành Thiện biết ông N đang chạy ở phía trước nên Thành Thiện chở P vượt lên chặn xe mô tô của ông N làm xe của ông N bị ngã, Hoàng Thiện cũng chở Trung vượt lên và Trung dùng cây gậy bằng kim loại ném ông N nhưng không trúng ông N mà trúng vào lưng của ông Tạo. Sau đó P lấy cây dao tự chế định đánh nhau với ông N thì Thành Thiện cầm nón bảo hiểm đi đến chỗ P và ông N, thấy vậy ông N quay lưng bỏ chạy thì bị P cầm dao chém trúng vào lưng ông N gây thương tích, ông N bỏ chạy vào nhà người dân. Lúc này Trung đi đến xe của ông Ng lấy cái áo giáp màu đen và lên xe cùng Thiện chạy đến Ba Hòn, huyện Kiên Lương thì bị Công an mời về trụ sở làm việc. Còn Thành Thiện và P đi đến cống ngăn mặn Ba Hòn thuộc khu phố Kiên Tân, thị trấn Kiên Lương, huyện Kiên Lương quăng bỏ cây dao mà P đã dùng chém ông N xuống cống ngăn mặn và đi về Hà Tiên.

* Vật chứng vụ án thu giữ được:

- 01 (một) cái áo giáp màu đen có in chữ Trung Quốc, đã qua sử dụng (của người bị hại Đỗ Minh Nghị).

- 01 (một) cây gậy bằng kim loại ba khúc màu trắng, bao da màu đen, đã qua sử dụng.

* Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 125/KL-PY ngày 15/02/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Kiên Giang, kết luận thương tích đối với Đỗ Minh N: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là: 11% (Mười một phần trăm).

*Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 50/2020/HS-ST, ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Việt Hồng P và Trịnh Quốc C phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Hồng P 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc C 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, được trừ thời gian tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày 11/9/2019.

Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên xử mỗi bị cáo Phan Thành T và Nguyễn Hữu T 02 năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 04 năm; tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và báo quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 13/01/2021, bị cáo Nguyễn Việt Hồng P có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt hoặc xin được hưởng án treo.

Ngày 14/01/2021, bị cáo Trịnh Quốc C có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 51/2021/HS-PT ngày 23/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang đã quyết định:

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự: Sửa bản án sơ thẩm.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Hồng P 01 (Một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 54, khoản 1 Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc C 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, trừ thời gian tạm giam từ ngày 18/7/2019 đến ngày 11/9/2019.

Ngày 03/11/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 262/QĐ- VC3-V1 đối với Bản án hình sự phúc thẩm số 51/2021/HS-PT ngày 23/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang; Đề nghị Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ chí Minh xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 79/2021/HS-GĐT ngày 29/11/2021, Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh nhận định:

Lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm đều phù hợp với lời khai của bị hại, vật chứng thu giữ, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: Xuất phát từ mâu thuẫn trong việc kinh doanh và cho rằng ông Đỗ Minh N cho người đánh mình và Nguyễn Hữu T nên Trịnh Quốc C đã bàn bạc với Nguyễn Hữu T, Phan Thành T và Nguyễn Việt Hồng P tìm Đỗ Hữu N cho T đánh trả thù. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 24/3/2018, khi gặp ông N tại đoạn đường thuộc tổ 6, ấp Bình Đông, xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang thì T chạy xe vượt lên chặn đầu xe của ông N làm ngã xe, P dùng dao tự chế chém trúng lưng ông N gây thương tích, T dùng cây gậy bằng kim loại ném nhưng không trúng ông N. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên cho ông N là 11%. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm tuyên bố các bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích“ theo điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Trong vụ án này, Trịnh Quốc C, tuy không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại nhưng chính bị cáo là người chủ mưu, khởi xướng việc đánh ông N để trả thù, bởi bị cáo cho rằng trước đó ông N là người tấn công bị cáo và T. Nguyễn Việt Hồng P là người trực tiếp dùng hung khí gây ra thương tích cho ông Đỗ Minh N, mặc dù bị cáo và ông N không quen biết và giữa hai người cũng không có mâu thuẫn gì trước, nhưng khi nghe C và T nói có mâu thuẫn với ông N và muốn trả thù thì bị cáo đã đồng ý mang theo hung khí tham gia đánh ông N. Phan Thành T, tuy không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại nhưng trong quá trình bàn bạc, T thống nhất nếu T đánh không lại ông N thì T sẽ cùng P đánh tiếp. Khi nhận được tín hiệu của C và biết ông N đang chạy phía trước thì T tăng ga đuổi theo, chặn xe làm ông N ngã, dùng mũ bảo hiểm để cùng tham gia tấn công, huy hiếp về mặt tinh thần bị hại. Phan Thành T là đồng phạm trong vụ án nhưng có vai trò không đáng kể. Nguyễn Hữu T có bàn bạc từ trước với các bị cáo khác về việc đánh ông N để trả thù, do đó T phải trách nhiệm hình sự cùng các bị cáo khác với vai trò đồng phạm.

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt mỗi bị cáo Nguyễn Việt Hồng P, Trịnh Quốc C 2 năm 6 tháng tù, cao hơn hình phạt của các bị cáo Phan Thành T, Nguyễn Hữu T (mỗi bị cáo 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 4 năm) là đã đánh giá đúng việc phân hóa vai trò, trách nhiệm của mỗi bị cáo trong vụ án. Tuy nhiên, tại Bản án hình sự phúc thẩm số 51/2021/HS-PT ngày 23/4/2021, Tòa án cấp phúc thẩm (Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang) xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Hồng P 01 (một) năm tù, bị cáo Trịnh Quốc C 01 (một) năm 6 (sáu) tháng tù, thấp hơn mức hình phạt của hai bị cáo còn lại trong vụ án với vai trò giúp sức là bị cáo Phan Thành T và bị cáo Nguyễn Hữu T là không phù hợp, không phân hóa đúng vai trò, trách nhiệm của các bị cáo trong vụ án, không thể hiện được sự công bằng trong công tác xét xử.

Từ đó quyết định chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; hủy toàn bộ Bản án hình sự phúc thẩm số 51/2021/HS-PT ngày 23/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang; Giao hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Kiên Giang xét xử phúc thẩm lại.

Tại phiên tòa:

- Các bị cáo Nguyễn Việt Hồng P và Trịnh Quốc C thừa nhận bản án sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng tội và giữ nguyên nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét nội dung kháng cáo của các bị cáo. Lý do hai bị cáo đưa ra để yêu cầu giảm hình phạt là hoàn cảnh gia đình khó khăn, đã rất ăn năn hối cải từ hành vi phạm tội của bản thân, riêng bị cáo P còn nêu lý do bị hại N có yêu cầu xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

- Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến: Đối với bị cáo P, tại phiên tòa phúc thẩm lần trước, bị hại N có ý kiến xin giảm hình phạt cho bị cáo và thấy rằng hoàn cảnh gia đình bị cáo thật sự khó khăn nên kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo có cơ sở để chấp nhận; đối với bị cáo C kháng cáo xin giảm hình phạt nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới nên không có cơ sở để chấp nhận. Đề nghị căn cứ điểm a, b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 BLTTHS, chấp nhận kháng cáo của bị cáo P; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, sửa bản án sơ thẩm; Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Hồng P 02 (Hai) năm tù; Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 17, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trịnh Quốc C 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo:

Xét đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Việt Hồng P và Trịnh Quốc C về nội dung, quyền kháng cáo, thủ tục kháng cáo và thời hạn kháng cáo đã đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Do đó Hội đồng xét xử chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Về quyết định của bản án sơ thẩm:

Do có mâu thuẫn với nhau trong việc kinh doanh và cho rằng ông Đỗ Minh N cho người đánh mình và Nguyễn Hữu T nên Trịnh Quốc C đã bàn bạc với Nguyễn Hữu T, Phan Thành T và Nguyễn Việt Hồng P tìm ông Đỗ Minh N cho T đánh trả thù, khi nào T đánh không lại thì Thành T và P vào đánh tiếp. Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 24/12/2018, khi gặp ông N đang chở ông Tạo đến đoạn đường thuộc tổ 06, ấp Bình Đông, xã Bình An, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang thì C cho Trung và Thành T biết ông N đang chạy phía trước. Thành T chạy xe vượt lên chặn đầu xe của ông N làm ngã xe, sau đó P cầm dao tự chế chém trúng vào lưng ông N gây thương tích. Lúc này, T dùng cây gậy bằng kim loại ném ông N nhưng không trúng ông N mà trúng vào lưng của ông Tạo. Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số: 125/KL-PY ngày 15/02/2019 của Trung tâm Pháp y tỉnh Kiên Giang, kết luận tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại đối với ông Đỗ Minh N là 11%. Do đó, bản án sơ thẩm xét xử và kết án các bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng quy định pháp luật.

[3] Về yêu cầu kháng cáo của các bị cáo:

Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Việt Hồng P kháng cáo xin giảm hình phạt hoặc xin được hưởng án treo; bị cáo Trịnh Quốc C kháng cáo xin giảm hình phạt.

Thấy rằng, trong vụ án này, bị cáo Trịnh Quốc C, tuy không trực tiếp gây ra thương tích cho bị hại nhưng chính bị cáo là người chủ mưu, khởi xướng việc đánh ông N để trả thù, bởi bị cáo cho rằng trước đó ông N là người tấn công bị cáo và T; bị cáo Nguyễn Việt Hồng P là người trực tiếp dùng hung khí gây ra thương tích cho bị hại Đỗ Minh N, mặc dù bị cáo và ông N không quen biết và giữa hai người cũng không có mâu thuẫn gì trước, nhưng khi nghe C và T nói có mâu thuẫn với ông N và muốn trả thù thì bị cáo đã đồng ý mang theo hung khí tham gia đánh ông N. Hành vi của các bị cáo thể hiện tính hung hăng, côn đồ, bất chấp kỹ cương pháp luật, xem nhẹ sức khỏe, tính mạng của người khác. Từ đó cho thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, mức án 2 năm 6 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt đối với bị cáo P và bị cáo C, cao hơn hình phạt của các bị cáo Phan Thành T, Nguyễn Hữu T (mỗi bị cáo 2 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 4 năm) là đã đánh giá đúng việc phân hóa vai trò, trách nhiệm của mỗi bị cáo trong vụ án, áp dụng đúng quy định tại Điều 58 BLHS về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm, đồng thời đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ từng bị cáo được hưởng (đối với bị cáo P, Tòa sơ thẩm đã nêu tình tiết bị hại xin giảm hình phạt cho bị cáo và đã áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS khi quyết định mức hình phạt nên đây không phải là tình tiết giảm nhẹ mới ở cấp phúc thẩm). Bị cáo C và P kháng cáo xin giảm hình phạt, xin được hưởng án treo nhưng không có thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới và không đủ điều kiện được hưởng án treo nên không có cơ sở để chấp nhận.

Từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Việt Hồng P và Trịnh Quốc C; giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên mỗi bị cáo P và C phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Việt Hồng P và Trịnh Quốc C; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

2. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Việt Hồng P 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích“. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo vào chấp hành án, được trừ thời gian đã chấp hành trước từ ngày 14/6/2021 đến ngày 14/3/2022.

3. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17 và Điều 58 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Trịnh Quốc C 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích“. Thời điểm chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 04/6/2021, được trừ thời gian tạm giam trước từ ngày 18/7/2019 đến ngày 11/9/2019.

3. Về án phí, căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí lệ phí Tòa án:

Mỗi bị cáo Nguyễn Việt Hồng P, Trịnh Quốc C phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm số 50/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 của Tòa án nhân dân huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

268
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 63/2022/HS-PT

Số hiệu:63/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Kiên Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về