Bản án về tội cố ý gây thương tích số 62/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 62/2024/HS-ST NGÀY 27/02/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 27 tháng 02 năm 2024 tại Hội trường A Tòa án nhân dân thành phố D, tỉnh B xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 02/2024/TLST - HS ngày 03 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2024/QĐXXST-HS ngày 16/02/2024 đối với bị cáo:

Bùi Anh T, sinh năm 2004 tại tỉnh K; thường trú: Thôn Q, xã C, L, tỉnh K; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Phật giáo; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 9/12; con ông: Bùi Ngọc T, sinh năm 1978 và con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1978; bị cáo có 03 anh em ruột, bị cáo là thứ 2; tiền án, tiền sự: Không có. Bị cáo ra đầu thú và bị bắt tạm giam ngày 11/10/2023, có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt

Bị hại: Ông Nguyễn Ngọc Đ, sinh năm 1981; thường trú: khu phố B, phường A, thành phố D, tỉnh B, vắng mặt.

Người làm chứng:

1. Anh Nguyễn Trọng N;

2. Anh Võ Hoàng M;

3. Anh Phạm Tuấn A;

4. Anh Hoàng Vũ Mạnh T (tất cả vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 29/7/2022, Bùi Anh T đến quán Karaoke A, địa chỉ đường N, khu phố Đ, phường A, thành phố D, tỉnh B gặp bạn Châu Hoàng P, Trà Văn T và Phạm Tuấn A. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, sau khi đi ăn uống cùng với P, Bùi Anh T vào phòng Vip 2 của quán Karaoke A ngủ. Vào lúc 01 giờ 30 phút ngày 30/7/2022, Nguyễn Ngọc Đ, Nguyễn Trọng N, Võ Hoàng M và Nguyễn Thị Ái X đến hát Karaoke tại phòng Vip 4 quán A, khi hát Đ không hài lòng với cách phục vụ của tiếp viên nữ tên T ( không rõ nhân thân) Đ sử dụng điện thoại di động đập vào trán của nữ tiếp viên T làm sưng vùng trán đồng thời nhóm Đ ra quầy tính tiền đi về. Khi tính tiền Đ đã nghe một người (không rõ ai nói) “ Sao vô đây hát mà còn kiếm chuyện với đào”. Lúc này Bùi Anh T trong phòng Vip 2 nghe thấy ồn ào nên mở cửa ra ngoài, Đ chỉ tay về phía Bùi Anh T nói “ Đ.M mày tao là Ba Đ nè, Tuấn A là thằng nào bảo kê quán này ra đây”. Khi nhóm Đ đẩy xe mô tô ra về thì Bùi Anh T thấy Châu Hoàng P, Trà Văn T mỗi người cầm một cây kiếm tự chế dài khoảng 01 mét, lưỡi bằng kim loại đuổi chém Đ. Nhóm bạn của Đ và Phạm Tuấn A chạy đến can ngăn nhưng P và Trà Văn T vẫn tiếp tục chém, Bùi Anh T chạy đến giật cây kiếm trên tay Trà Văn T chém nhiều cái vào vùng chân và vùng tay Đ gây thương tích. Sau đó Bùi Anh T, P và Trà Văn T cầm kiếm bỏ chạy và vứt kiếm trên đường chạy (không thu hồi được). Đ được bạn đưa đi cấp cứu. Ngày 11/10/2023 Bùi Anh T đến Công an phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu Một đầu thú, Châu Hoàng P và Trà Văn T sau khi gây án đã bỏ trốn.

Kết luận giám định pháp y về thương tích số 672/2022/GĐPY ngày 22/9/2022 của Trung tâm Pháp y – Sở Y tế tỉnh B, đối với thương tích của bị hại Nguyễn Ngọc Đ, như sau 1. Dấu hiệu chính qua giám định: Vết thương cụt đốt xa ngón I bàn tay phải, mỏm cụt lành; vết thương gối trái 21 x 0,6cm, đứt gân tứ đầu đùi, đã phẫu thuật khâu nối gân, sẹo lành. Hiện tại vận động gối trái còn đau; vết thương gối phải 14,5 x 0,7cm, đứt gân bánh chè, gãy hở xương bánh chè, mẻ lồi cầu xương đùi phải, đã phẫu thuật khâu nối gân, kết hợp xương bánh chè, sẹo lành. Hiện tại vận động gối phải vẫn còn đau; vết thương lòng bàn chân phải 5,5 x 0,2cm và 2,5 x 0,1cm, sẹo lành; Vết thương cụt đốt 2,3 ngón III bàn chân trái, mỏm cụt lành.

2. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên 30% 3. Kết luận khác:

* Cơ chế hình thành thương tích:

- Vết thương cụt đốt xa ngón I bàn tay phải: Bờ tương đối gọn, khả năng do vật sắc gây ra; vết thương gối trái: Bờ sắc nhọn, khả năng do vật sắc gây ra; vết thương gối phải: Bờ tương đối gọn, khả năng do vật sắc gây ra; cụt 2,3 ngón III bàn chân trái: Khả năng do vật sắc gây ra.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Ngọc Đ không yêu cầu bồi thường dân sự Đối với Châu Hoàng P và Trà Văn T đã bị khởi tố và đang bị truy nã.

Cáo trạng số 31/CT – VKS - DA ngày 02 tháng 01 năm 2024, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, tỉnh B truy tố bị cáo Bùi Anh T về tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 (gọi tắt Bộ luật hình sự).

Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố D giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Bùi Anh T từ 03 năm 06 tháng đến 4 năm tù.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

[1.1] Bị cáo Bùi Anh T có yêu cầu xét xử vắng mặt, bị hại Nguyễn Ngọc Đ vắng mặt. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290 và Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự, Hội đồng xét xử xử vắng mặt bị cáo, bị hại.

[1.2] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố D, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố D, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra bị cáo, người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Chứng cứ xác định có tội của bị cáo Bùi Anh T: Khoảng 1 giờ 30 phút ngày 30/7/2022, tại đường N, khu phố Đ, phường A, thành phố D, tỉnh B, Bùi Anh T cùng Châu Hoàng P và Trà Văn T dùng kiếm tự chế chém anh Nguyễn Ngọc Đ thương tích 30% . Bản cáo trạng số 31/CT-VKS-DA ngày 02/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố D truy tố bị cáo theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự cũng như trình bày luận tội của Kiểm sát viên tại phiên toà là có căn cứ pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T trong quá trình điều tra bị cáo thể hiện thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo ra đầu thú. Tình tiết trên được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về nhân thân: Bị cáo T có nhân thân tốt thể hiện việc không có tiền án, tiền sự, bị cáo nhất thời phạm tội.

[6] Về tính chất mức độ tội phạm: Bị cáo T phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng do có khung hình phạt đến 6 năm tù. Hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe bị hại Đ được pháp luật bảo vệ mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo mức án tù có thời hạn, tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo cũng như có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại Nguyễn Ngọc Đ không yêu cầu bồi thường về dân sự nên không đặt ra xem xét.

[8] Trong vụ án còn có Châu Hoàng P và Trà Văn T cùng gây thương tích cho bị hại Đ. Hiện P và T đã bị khởi tố, có quyết định truy nã. Hội đồng xét xử không xem xét trong vụ án này.

[9] Đối với quan điểm của đại diện Viện kiểm sát thành phố D, tỉnh B đưa ra tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, mức hình phạt đối với bị cáo T phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử do vậy được chấp nhận.

[10] Án phí sơ thẩm: Bị cáo Bùi Anh T phải nộp án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Bùi Anh T phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 và Điều 58 Bộ luật Hình sự. Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 290 và Điều 292 Bộ luật tố tụng Hình sự.

Xử phạt bị cáo Bùi Anh T 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/10/2023.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 Bị cáo Bùi Anh T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí Hình sự sơ thẩm Bị cáo, bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

38
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 62/2024/HS-ST

Số hiệu:62/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/02/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về