TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH THÁI BÌNH
BẢN ÁN 62/2022/HSPT NGÀY 11/08/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 11 tháng 8 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 89/2022/TLPT-HS ngày 24 tháng 6 năm 2022 do có kháng cáo của bị cáo Mai Văn L đối với bản án hình sự sơ thẩm số: 34/2022/HS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 88/2022/QĐXXPT-HS ngày 29/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
*Bị cáo có kháng cáo: Mai Văn L, sinh năm 1960 Nơi cư trú: Thôn X, xã Q, huyện Q, tỉnh Thái Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Mai Văn N và bà Mai Thị L (đều đã chết); Có vợ là Trần Thị N và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Từ tháng 8/1980-02/1984 tham gia nghĩa vụ quân sự. Bị cáo bị áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, có mặt tại phiên tòa.
* Bị hại:Ông Mai Văn R, sinh năm 1948; nơi cư trú: Thôn XL, xã QX, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.(có mặt)
* Người làm chứng:
+ Bà Nguyễn Thị Đ, sinh năm 1953;
+ Ông Mai Văn C, sinh năm 1951;
+ Ông Mai Đăng TH, sinh năm 1959;
+ Ông Mai Đình PH, sinh năm 1950;
+ Ông Đoàn Văn Kh, sinh năm 1951;
+ Bà Mai Thị P, sinh năm 1948;
+ Anh Mai Văn B2, sinh năm 1976;
Đều cư trú tại: Thôn XL, xã QX, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình.
(Ông TH, anh B2 có mặt;Bà Đ, ông C, ông PH, ông Kh, bà P vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bị cáo Mai Văn L là anh họ ông Mai Văn R. Khoảng hơn 09 giờ ngày 22/11/2021, sau khi ăn sáng, uống rượu xong, bị cáo L đến Nhà văn hóa thôn XL, xã QX để nộp tiền điện. Lúc này, trong nhà văn hóa có ông R, bà Đ, ông TH, ông PH, ông Kh trưởng thôn đang chờ nộp tiền điện. Thấy nhân viên thu tiền điện và ông TH đang tranh luận nên bị cáo nói với ông Kh “Ông xem thế nào mà lại để ông TH trả nhầm tiền điện” thì ông Kh nói “Ông về đi để mọi người làm việc”, dẫn đến hai bên có lời qua tiếng lại. Sau đó, bị cáo về ghế ngồi thì ông R đi lại chỗ bị cáo nói “Anh biết cái đéo gì mà nói”. Bị cáo L trả lời “Chú biết cái gì mà nói anh”. Trong lúc hai bên lời qua tiếng lại, bị cáo dùng tay trái túm cổ áo ông R lôi ra trước cửa nhà văn hóa thôn, đứng đối diện ông R, cách khoảng 0,5m, tay trái túm cổ áo, tay phải đấm nhiều nhát vào vùng cổ, ngực, bụng, sườn, bả vai, cánh tay ông R thì ông R giơ hai tay lên đỡ và bị ngã ngồi bệt, hai tay chống xuống nền. Lúc này, bà Đ bước đến Cn ngăn, đỡ ông R dậy thì bị cáo L chửi bà Đ rồi dùng tay kéo ông R đứng dậy và tiếp tục đánh. Mọi người thấy vậy Cn ngăn thì bị cáo L không đánh ông R nữa. Sau khi sự việc xảy ra, ông R đến Công an xã QX trình báo rồi đi về nhà nằm nghỉ thì thấy đau ngực, khó thở, đau bả vai và mạn sườn phải nên sáng ngày 23/11/2021 ông R đến Bệnh viện đa khoa Quỳnh Phụ khám, kết luận: Ông R bị gẫy xương bả vai phải, xương sườn 2 bên phải, bờ dưới ổ chảo xương cánh tay bên phải; giãn các nhánh phế quản thùy giữa, thùy trên hai bên. Buổi tối cùng ngày, ông R đến nhà ông Mai Văn C điều trị bằng phương pháp bó lá thuốc.
Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 294/21/TCT ngày 21/12/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Bình kết luận: Ông Mai Văn R bị: “Thương tích vùng cổ, vùng ngực, vùng cánh tay trái do vật tẩy tác động làm bầm tím, gẫy xương sườn 2 bên phải, gãy xương bả vai phải. Đã được xử trí dùng thuốc kháng sinh, giảm đau. Hiện tại thở sâu còn đau ngực, cánh tay phải giơ lên còn đau. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 5% (Năm phần trăm)”.
Bản án sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình đã quyết định:
1. Tuyên bố bị cáo Mai Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Mai Văn L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 10.056.600 đồng gồm: Chi phí khám tại Bệnh viện đa khoa Quỳnh Phụ 913.600 đồng (chụp cắt lớp vi tính lồng ngực chụp X-Quang); tiền thuốc 643.000 đồng; tiền bó bột 500.000 đồng; tiền 30 ngày công lao động bị mất 3.000.000 đồng (100.000 đồng/ngày); tiền bồi thường tổn thất tinh thần 5.000.000 đồng.
Ngoài ra án sơ thẩm còn quyết định về án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 30/5/2022, bị cáo Mai Văn L kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình tuyên bố bị cáo không phạm tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo trình bày: Bị cáo thừa nhận do ông R là em họ nhưng có lời nói xúc phạm bị cáo nên hai bên có xảy ra mâu thuẫn, bị cáo có nắm cổ áo của ông R lôi ra ngoài hội trường thôn và giằng co nhau nên ông R bị ngã ra chứ bị cáo không đánh ông R, việc ông R bị thương tích là do cách ngày xảy ra xô xát với bị cáo khoảng vài ngày, ông R bị ngã phải bó lá thuốc tại nhà ông C (cùng thôn). Bên cạnh đó, thương tích 5% cũng là nhẹ, chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự. Vì vậy, Tòa án huyện Quỳnh Phụ xét xử bị cáo là chưa đúng người đúng tội, đề nghị cấp phúc thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình sau khi phân tích toàn bộ nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân cũng như nội dung kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không châp nhân khang cao cua bị cáo Mai Văn L, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với bị cáo L.
Bị cáo trình bày tranh luận và nói lời sau cùng: Bị cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm đề nghị tuyên bố bị cáo không phạm tội.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: Kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định là hợp lệ nên được xét xử theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo cho rằng bị cáo không phạm tội thì thấy:
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không thừa nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã tuyên xử. Bị cáo cho rằng mình không có hành vi dùng tay đấm vào người ông R, chỉ thừa nhận việc giằng co nhau giữa bị cáo và ông R, làm ông R ngã. Bị cáo cho rằng thương tích của ông R do ông R bị ngã từ trước ngày xảy ra sự việc và đã được ông Mai Văn C bó lá từ thời điểm đó và thương tích năm 5% là không đủ buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, trong quá trình điều tra cả bị cáo và bị hại đều thừa nhận khi phát sinh mâu thuẫn thì chỉ có hai người giằng co, xô xát với nhau tại cửa hội trường thôn, khi bắt đầu xô xát thì không có ai Cn ngăn hay tham gia kích động; tại các bút lục số 106-121 trong hồ sơ vụ án thể hiện, bị cáo Mai Văn L có khai nhận bị cáo có hành vi đấm nhiều nhát vào vùng tay, cổ, ngực và bụng ông R, tay trái bị cáo túm cô áo ông R, tay phải đấm vào người ông R.Việc lấy lời khai của bị cáo có sự chứng kiến của chính quyền địa phương và anh Mai Văn Nam là con trai bị cáo, tại phiên tòa phúc thẩm anh Nam thừa nhận có được chứng kiến cơ quan điều tra lấy lời khai của ông L và ông L không bị bức cung, nhục hình, các lời khai đều tự nguyện và đúng sự thật. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của người làm chứng là bà Đ thể hiện: “Khoảng 10 giờ ngày 22/11/2021, bà ra Nhà văn hóa thôn XL để nộp tiền điện thì thấy ông TH ở cùng thôn và nhân viên thu tiền điện có nhầm lẫn tiền điện, nghe thấy L cũng to tiếng về việc thu tiền điện. Lúc này, ông R ngồi gần đó nói “Anh L ơi đừng nói ầm lên nữa để người ta giải quyết sự việc”. Sau đó, L tay trái túm cổ áo ông R lôi ra ngoài của nhà văn hóa thôn, tay trái năm cổ áo, tay phải đấm liên tiếp vào vùng ngực, mạn sườn ông R làm ông R ngã ra. Thấy vậy, bà vào Cn ngăn, đỡ ông Rất dây, kế tiếp tục lao vào túm cổ áo ông R. Sau đó, mọi người vào Cn ngăn thì L thôi không đánh nữa” (bút lục số 132-137). Việc bị cáo khai ông R bị ngã từ trước ngày xảy ra việc xô xát với bị cáo là có mâu thuẫn với chính lời khai của bị cáo khi bị cáo xác nhận khi giằng co với ông R thì ông R không bị băng bó gì, ông R phủ nhận lời khai của bị cáo; tại biên bản ghi lời khai (bút lục số 161- 162), ông Mai Văn C cũng xác nhận: “Trưa ngày 22/11/2021, ông R có sang nhà ông kể về việc bị L đánh ở nhà văn hóa thôn. Đến tối ngày 23/11/2021, ông R có sang nhà ông để bó lá thuốc. Ông C khai ngày 23/11/2021 là lần đầu tiên ông C bó lá thuốc cho ông R”. Những lời khai này phù hợp với biên bản xem xét dấu vết trên thân thể do Công an xã QX lập hồi 10 giờ 30 phút ngày 22/11/2021 tại Trạm y tế xã QX, huyện Quỳnh Phụ (bút lục số 39); Kết quả phiếu chụp cắt lớp vi tính lồng ngực, chụp X-quang ngực, khớp vai của ông Mai Văn R tại Bệnh viện đa khoa huyện Quỳnh Phụ (bút lục số 41-43); Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 294/21/TGT ngày 21/12/2021 của Trung tâm pháp y tỉnh Thái Bình (bút lục số 49-50); Biên bản xác định hiện trường vụ án và sơ đồ hiện trường vụ án do cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Quỳnh Phụ tỉnh Thái Bình lập hồi 14 giờ ngày 25/11/2021 (bút lục số 56-59); Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của bị hại là ông Mai Văn R (bút lục số 01; 122-131; 172-173); Ông R thuộc đối tượng người Khết tật nặng được hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng, thường xuyên đau ốm, phải điều trị bệnh viêm phế quản cấp tại Bệnh viện đa khoa Quỳnh Phụ (bút lục số 72-87); biên bản ghi lời khai của ông Mai Đăng TH; ông Mai Đình PH; ông Đoàn Văn Kh; bà Mai Thị P, anh Mai Văn B2 (bút lục số 138-159). Do đó, có đủ cơ sở kết luận: Do mâu thuẫn trong khi đi nộp tiền điện nên khoảng 09 giờ ngày 22/11/2021, tại cửa nhà văn hóa thôn XL, xã QX, huyện Quỳnh Phụ, bị cáo Mai Văn L đã có hành vi dùng tay trái nắm cổ áo và tay phải đâm nhiều nhát vào vùng cổ, ngực, bả vai, bụng, sườn, cánh tay ông Mai Văn R, đã trên 70 tuổi và là người già yếu, ốm đau, bị Khết tật nặng, làm ông R bị thương tích vùng cổ, vùng ngực, vùng cánh tay trái, gẫy xương sườn 2 bên phải, gây xương bả vai phải.Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định là 5% (Năm phần trăm). Hành vi của Mai Văn L đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức hình phạt 06 tháng tù, buộc bị cáo bồi thường số tiền 10.056.600 đồng cho bị hại là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra. Tại giai đoạn phúc thẩm, bị cáo không xuất trình thêm tài liệu, chứng cứ mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo Mai Văn L như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thái Bình tại phiên tòa là phù hợp.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo Mai Văn L không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định của pháp luật. Bị cáo là người Co tuổi nên được miễn án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận toan bô yêu cầu kháng cáo của bị cáo Mai Văn L; giữ nguyên bản án sơ thẩm số 34/2022/HS-ST ngày 17 tháng 5 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình về tội danh, hình phạt và trách nhiệm dân sự. Cụ thể:
1.1. Tuyên bố bị cáo Mai Văn L phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
1.2. Về hình phạt:
- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự; điểm i khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm k khoản 1 Điều 52, Điều 50; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Mai Văn L 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
1.3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng các điều 584, 585, 586, 590 Bộ luật Dân sự. Buộc bị cáo phải bồi thường cho bị hại số tiền 10.056.600 đồng gồm: Chi phí khám tại Bệnh viện đa khoa Quỳnh Phụ 913.600 đồng (chụp cắt lớp vi tính lồng ngực chụp X-Quang); tiền thuốc 643.000 đồng; tiền bó bột 500.000 đồng; tiền 30 ngày công lao động bị mất 3.000.000 đồng (100.000 đồng/ngày); tiền bồi thường tổn thất tinh thần 5.000.000 đồng.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại các Điều 357, Điều 468 của Bộ luật dân sự 2015.
Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.
2. Về án phí: Miễn án phí hình sự phúc thẩm cho bị cáo Mai Văn L.
3. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án ngày 11/8/2022.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 62/2022/HSPT
Số hiệu: | 62/2022/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thái Bình |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về