Bản án về tội cố ý gây thương tích số 61/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LỤC NAM, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 61/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh B tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 64/2023/TLST-HS ngày 05 tháng 9 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 61/2023/QĐXXST-HS ngày 06/9/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn H, sinh năm 1976 tại huyện L, tỉnh B. Nơi cư trú: Thôn A, xã V, huyện L, tỉnh B; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thanh T và bà Dương Thị B; có vợ là Trần Thị T1 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không có; bị cáo tại ngoại, bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

* Bị hại: Nguyễn Huy H1, sinh năm 1962; nơi cư trú: Thôn A, xã V, huyện L, tỉnh B; có mặt

* Người làm chứng:

- Lê Thị L, sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn A, xã V, huyện L, tỉnh B; vắng mặt

- Nguyễn Thị M, sinh năm 1999; nơi cư trú: Thôn A, xã V, (nay ở thôn Y, xã B), huyện L, tỉnh B; có mặt

- Nguyễn Thị T2, sinh năm 1958; nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện L, tỉnh B; vắng mặt

- Đào Văn V, sinh năm 1954; nơi cư trú: Thôn Đ, xã V, huyện L, tỉnh B; có mặt

- Nguyễn Thị X, sinh năm 1973; nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện L, tỉnh B; có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 13/4/2023, ông Nguyễn Huy H1 (là anh ruột của Nguyễn Văn H) cùng với bà Lê Thị L (là vợ cũ của H), chị Nguyễn Thị M (là con gái của H), ông Đào Văn V (là anh rể của H) và một số người là anh, chị, em của H đi đến nhà H, mục đích để giải quyết mâu thuẫn giữa H và bà L. Khi đến nơi thì bà L, ông H1 và ông V đi vào trong nhà, chị M và những người còn lại đứng ở ngoài sân. Tại gian phòng khách, H đuổi ông H1 ra khỏi nhà, dùng tay du đẩy ông H1 ra ngoài nhưng ông H1 không ra. Do bực tức nên H đi lấy 01 con dao, loại dao ba, H cầm dao bằng tay phải tiến về phía ông H1 giơ dao lên dọa, ông H1 dùng tay du đẩy lại thì H cầm dao chém một nhát từ phải sang trái trúng vào vùng mông bên trái của ông H1; ông H1 túm tay H và giằng được con dao, ông H1 cầm dao đi ra ngoài, sau đó ông H1 được mọi người đưa đến Trung tâm y tế huyện L điều trị vết thương. Lúc này bà L vẫn đang ở trong phòng khách, H yêu cầu bà L ra ngoài nhưng bà L không ra nên H đi ra đóng cửa và khóa lại, H bỏ đi khoảng 30 phút thì quay lại mở cửa, H tiếp tục yêu cầu bà L đi ra ngoài nhưng bà L vẫn không ra nên Hà đóng, khóa cửa rồi đi ăn cơm. Ngay sau đó chị Nguyễn Thị M đi đến Công an xã V trình báo sự việc.

Quá trình điều tra, ông Nguyễn Huy H1 giao nộp 01 con dao, dạng dao ba, chuôi dao bằng kim loại dài 11cm, bản dao dài 28cm, một lưỡi sắc, bản dao rộng nhất 07cm. Bà Lê Thị L giao nộp 01 đĩa DVD ghi hình ảnh sự việc tại hiện trường.

Tại giấy chứng nhận thương tích số 14 ngày 10/5/2023 của Trung tâm y tế huyện L xác định: Ông Nguyễn Huy H1 vào viện ngày 13/4/2023, ra viện ngày 14/4/2023. Tình trạng thương tích lúc vào viện: Bệnh nhân tỉnh, tiếp xúc được, da niêm mạc hồng, không sốt; vết thương 1/4 ngoài trên mông trái dài 03cm, bờ sắc gọn, chảy máu nhiều.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định về thương tích của ông Nguyễn Huy H1 và vật gây nên thương tích.

Tại bản Kết luận giám định số 1420/23/KLTTCT-TTPY ngày 25/5/2023, Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B kết luận:

- Dấu hiệu chính qua giám định: Thương tích vết sẹo vùng 1/4 trên ngoài mông trái: 1% - Kết luận: Căn cứ Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể của ông Nguyễn Huy H1 tại thời điểm giám định là 1%.

- Kết luận khác: Thương tích do vật sắc gây nên, không xác định được chiều hướng.

Tại bản Kết luận giám định số 1420B/23/KLTTCT-TTPY ngày 25/5/2023, Trung tâm pháp y Bệnh viện đa khoa tỉnh B kết luận: Căn cứ kết quả giám định vật gây thương tích được cơ quan trưng cầu gửi đến phù hợp với đặc điểm của tổn thương; xác định con dao bài (dao ba) là vật gây ra được thương tích cho ông Nguyễn Huy H1.

Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định đối với video lưu trong DVD do bà Lê Thị L giao nộp. Tại bản Kết luận giám định số 1066/KL-KTHS ngày 13/6/2023, Phòng K Công an tỉnh B kết luận: Không phát hiện dấu vết cắt ghép nội dung hình ảnh trong file video có tên “3941168407058305449.mp4”; dung lượng 23,4MB; thời lượng 03 phút 06 giây lưu trữ trong DVD gửi giám định. Trích xuất được 05 hình ảnh thể hiện diễn biến của sự việc có trong 03 file video gửi giám định.

Nguyễn Văn H có hành vi đóng, khóa cửa khi bà Lê Thị L đang ở trong nhà; quá trình điều tra xác định H đã yêu cầu bà L đi ra khỏi nhà nhưng bà L kiên quyết không ra nên Hà đóng, khóa cửa lại để bảo quản tài sản, không nhằm mục đích bắt giữ bà L; Cơ quan điều tra đã kết luận không có căn cứ xử lý hành vi này của H.

Nguyễn Văn H tố giác bị người khác xâm phạm chỗ ở, quá trình điều tra xác định ông H1, ông V và bà L đi vào trong nhà để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn giữa H và bà L, không nhằm mục đích gì khác; Cơ quan điều tra đã kết luận không có căn cứ xử lý theo tố giác của H.

Tại bản Cáo trạng số 66/CT-VKS ngày 30 tháng 8 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

* Kiểm sát viên phát biểu luận tội, giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134, các điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 65 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H từ 06 - 09 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 12 - 18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu 01 con dao bị cáo Nguyễn Văn H sử dụng làm công cụ phạm tội để tiêu hủy.

- Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

* Bị hại, ông Nguyễn Huy H1 trình bày: ông và bà L, ông Vđi vào trong nhà H để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn giữa H và bà L; H có chửi, đuổi nhưng ông vẫn đứng ở phòng khách trong nhà. Sau đó H đi lấy 01 con dao xông vào chém ông 01 nhát vào phía dưới sườn bên trái ông gây ra thương tích bị chảy máu. Theo kết luận giám định thì ông bị tổn thương cơ thể là 1%. Ông đề nghị Tòa án xét xử, quyết định hình phạt đối với H theo quy định của pháp luật; ông không yêu cầu H phải bồi thường thiệt hại do H đã gây thương tích cho ông.

* Bị cáo Nguyễn Văn H trình bày: Bị cáo nhất trí với nội dung bản Cáo trạng và ý kiến luận tội của Kiểm sát viên; bị cáo bị khởi tố, truy tố, xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” là đúng người, đúng tội. Nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên: Trong quá trình tiến hành tố tụng Điều tra viên, Kiểm sát viên thực hiện đúng nhiệm vụ, quyền hạn và các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ai tố cáo, khiếu nại gì. Hội đồng xét xử kết luận hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đều đúng quy định và hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Văn H luôn thành khẩn khai báo, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của người bị hại và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 10 giờ ngày 13/4/2023, ông Nguyễn Huy H1 cùng với bà Lê Thị L và một số người khác cùng nhau đi đến nhà Nguyễn Văn H để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn giữa H và bà L nhưng H không chấp nhận. H đuổi mọi người ra ngoài không được nên đi lấy 01 con dao, loại dao ba để đe dọa; giữa H và ông H1 có xảy ra xô xát, du đẩy nhau, H dùng tay phải cầm dao chém 01 nhát từ phải sang trái, từ trên xuống dưới trúng vào vùng trên mông trái ông Hl, hậu quả làm ông H1 bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 01%.

[3] Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác; bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiếp. Mặc dù thương tích của ông H1 do bị cáo H gây nên chỉ là 01%, nhưng bị cáo đã dùng hung khí nguy hiểm là 01 con dao ba để chém, gây thương tích cho ông H1. Vì vậy, hành vi của bị cáo Nguyễn Văn H đã đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý gây thương tích”, Viện kiểm sát nhân dân huyện L truy tố bị cáo Nguyễn Văn H về tội danh trên theo điểm a khoản 1 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Xét thấy bị cáo Nguyễn Văn H là người có nhân thân tốt, phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, quá trình điều tra, truy tố, xét xử luôn có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; những tình tiết giảm nhẹ trên được quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra; căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ bị cáo được hưởng; không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội, bị cáo có đủ điều kiện được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự, chỉ cần giao bị cáo cho chính quyền địa phương giám sát, giáo dục là đủ, đúng với chính sách xử lý của pháp luật hình sự Nhà nước ta.

[5] Về vật chứng: Sau khi bị Nguyễn Văn H dùng dao chém, ông Nguyễn Huy H1 đã túm tay, giằng được con dao từ tay H, sau đó ông H1 giao nộp con dao cho Cơ quan điều tra. Quá trình điều tra H đã được nhận dạng, xác định con dao ông H1 giao nộp chính là con dao H đã chém, gây thương tích cho ông H1. Xét thấy con dao là công cụ phạm tội nhưng không có giá trị nên cần tịch thu để tiêu hủy.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000 đồng phí hình sự sơ thẩm t heo quy định tại Điều 6, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1- Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 134; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H 06 (sáu) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” nhưng cho hưởng án treo; thời gian thử thách là 01 (một) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 21/9/2023).

Giao bị cáo Nguyễn Văn H cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện L, tỉnh B giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách của án treo;

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự;

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu của Nguyễn Văn H01 con dao, loại dao ba (do ông Nguyễn Huy H1 giao nộp) để tiêu hủy.

Vật chứng nêu trên có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện L.

3- Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 6, khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

Bị cáo Nguyễn Văn H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt đều có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

5
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 61/2023/HS-ST

Số hiệu:61/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Nam - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về