Bản án về tội cố ý gây thương tích số 61/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 61/2021/HS-PT NGÀY 11/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 11 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 40/2021/TLPT-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo Trương Thành Qu do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 10/2021/HS-ST ngày 12 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri.

Bị cáo có kháng cáo: Trương Thành Qu, sinh năm 2000 tại tỉnh Bến Tre; Nơi cư trú: ấp A, xã Tr, huyện B, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: Lớp 8/12; giới tính: nam; dânt tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Trương Thành Qu và bà Nguyễn Thị Ngọc H; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 14 giờ ngày 10/02/2019 (nhằm ngày mùng 6 tết âm lịch), tại khu vực nhà ông Trương Thành Qu ở ấp A, xã T, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre có một nhóm thanh niên tụ tập đánh bài, trong đó có Lê Quang T tham gia. Trong lúc chơi đánh bài thì có một nhóm thanh niên gồm Huỳnh Tấn Đ, Nguyễn Hoàng Ph, Huỳnh Long P, Phạm Trọng Ng, Đặng Hùng V, Nguyễn Thế H đến tụ điểm đánh bài. Do Huỳnh Tấn Đ có mâu thuẩn từ trước với Lê Quang T nên khi gặp nhau, Đ dùng nón bảo hiểm đánh Lê Quang T dẫn đến nhóm thanh niên đánh bài của T và nhóm thanh niên của Đ cự cải xô xát nhau làm Huỳnh Long P bị rớt mất mặt dây chuyền đang đeo trên cổ, T thì chạy vào nhà Trương Thành Q trốn, còn Trương Thành Qu (con Q) lúc này đang cầm dao chặt trúc thấy hai nhóm xô xát nhau liền rượt nhóm của Đ bỏ chạy và Phạm Trọng Ng điện thoại thông báo cho Huỳnh Minh Tr (cha Huỳnh Long P) biết về việc Huỳnh Long P bị đánh rớt mất mặt dây chuyền. Sau khi nhận được điện thoại, Huỳnh Minh Tr cùng Kiều Xuân V mỗi người cầm 01 cây tuýp sắt đến trước sân nhà Trương Thành Q lớn tiếng chửi bới đòi đánh nhau thì Q đi ra can ngăn. Sợ nhóm người của Huỳnh Minh Tr vào nhà tìm đánh, Lê Quang T đang trốn trong nhà Q liền bỏ chạy ra ngoài cửa trước thì bị vấp té, V cầm cây đánh T thì Quận đưa tay lên đỡ làm gãy tay. Lúc này, Trương Thành Qu đang ở trong nhà nghe tiếng cự cãi liền lấy con dao chạy ra chém một nhát trúng tay Huỳnh Minh Tr gây thương tích, Tr bỏ chạy vấp té làm gãy xương sườn. Chém Tr xong, Quốc quay sang chém V một nhát trúng vào đầu gây thương tích, V bỏ chạy thì Qu cầm dao đi vào nhà. Sau đó, Tr và V được mọi người đưa đến bệnh viện điều trị.

Vật chứng và tài sản đã thu giữ, gồm: 01 con dao bằng sắt mũi bằng dài 40cm, rộng 05cm do Trương Thành Qu giao nộp; 01 đoạn tuýp sắt tròn dài 69cm, đường kính 3,2cm, một đầu bịt hở, một đầu rỗng; 01 đoạn tuýp sắt tròn dài 68,5cm, đường kính 2,7cm hai đầu rỗng của Huỳnh Minh Tr 01 xe môtô màu đen biển số 71B3- 177.07 của Nguyễn Thế H (đã xử lý giao trả cho Võ Thị B là vợ của H); 01 xe môtô Sirius màu trắng đen, biển số 71C2-087.12 của Phạm Trọng Ng (đã giao trả cho Ng); 01 xe môtô Wave α màu vàng, biển số 71H8-7592 của Huỳnh Tấn Đ (đã giao trả cho Đ); 01 xe môtô Wave α màu trắng, biển số 71C2-267.27 của Nguyễn Hoàng Ph (đã giao trả cho Ph).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 89 – 319/TgT ngày 29/3/2019, số 234-920 ngày 10/9/2020 và công văn số 162-1120/PY-GĐTH ngày 11/11/2020, Trung tâm Pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Huỳnh Minh Tr bị: Xquang khuỷu tay phải gãy hở mõm khuỷu phải và lồi cầu trong tay phải; phẩu thuật kết hợp xương mõm khuỷu bằng néo ép, kết hợp mõm trên lồi cầu bằng đinh Kirschner; hiện vết thương và vết mổ lành sẹo kích thước 19cm x 0,2cm, khuỷu phải gấp duỗi trong 50 đến 1450; cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc nhọn gây ra và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là 15%. Gãy xương sườn IX phải, cơ chế hình thành vết thương là do vật tày gây ra và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là 03%. Tổng tỷ lệ phần trăm hai lần giám định là 18% (BL119).

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 100 – 419/TgT ngày 12/4/2019, Trung tâm Pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Kiều Xuân V bị: Vết thương dọc vùng trán trái từ mí chân tóc dài 05cm, CT Scanner đầu nứt sọ trán trái. Hiện tỉnh tiếp xúc tốt, vết thương lành sẹo kích thước 06cm x 0,3cm. Xây sát da cẳng tay trái đã lành còn lại vết sạm da kích thước 05cm x 0,1cm. Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc nhọn gây ra và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là 11%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 245 – 919/TgT ngày 27/9/2019, Trung tâm Pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Trương Thành Qu bị: sưng nề cẳng tay trái. Xquang cẳng tay trái gãy 1/3 giữa xương trụ có cal xương. Điều trị bảo tồn. Hiện xương lành, cal xương gù ít, bàn tay sấp ngửa bình thường. Cơ chế hình thành vết thương là do vật tày gây ra và xếp tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là 06%.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2021/HS-ST ngày 12-3-2021 của Tòa án nhân dân huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre đã tuyên bố bị cáo Trương Thành Qu phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm d khoản 3 (điểm a khoản 1) Điều 134;

điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Thành Qu 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 12/3/2021, bị cáo Trương Thành Qu kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt tù.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thay đổi kháng cáo, yêu cầu được hưởng án treo, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội phù hợp với nội dung Bản án sơ thẩm.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong hạn luật định. Về tội danh, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Trương Thành Qu phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét kháng cáo của bị cáo, khi áp dụng hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã xem đầy đủ tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có thêm tình tiết giảm nhẹ mới. Xét mức hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo là dưới mức thấp nhất của điều luật mà bị cáo bị truy tố nên được giữ nguyên. Do vậy, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Đề nghị căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo Trương Thành Qu phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm d khoản 3 (điểm a khoản 1) Điều 134;

điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Trương Thành Qu 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo nói lời sau cùng yêu cầu giảm nhẹ hình phạt để sớm về gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định: Vào khoảng 14 giờ ngày 10/02/2019, tại khu vực nhà ông Trương Thành Q ở ấp A, xã P, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, Trương Thành Qu đã có hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm chém gây thương tích bị hại Huỳnh Minh Tr với tỷ lệ tổn thương cơ thể ở tay 15% và anh Kiều Xuân V với tỷ lệ tổn thương cơ thể 11%. Với ý thức, hành vi và hậu quả do bị cáo đã gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Trương Thành Qu phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ đúng quy định pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo thấy rằng, khi áp dụng hình phạt tù Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng; Về tình tiết giảm nhẹ, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo đã tự nguyện bồi thường cho bị hại Huỳnh Minh Tr 70.000.000 đồng, bị hại Kiều Xuân V không yêu cầu bồi thường; bị hại cũng có một phần lỗi và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo theo quy định tại các điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo cho rằng, bị hại có lỗi trước (đánh cha của bị cáo là ông Trương Thành Q) nên bênh vực cha, tình tiết này theo lời khai của ông Q thì ông không biết ai đánh ông, khi bị cáo chạy lên cũng không thấy ai đánh ông Q do ông Quận đang ngã dưới dất, bị cáo lại dùng dao chém hai người; tình tiết bị cáo tự nguyện bồi thường và ăn năn hối hận tình tiết này đã được Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo; tình tiết bị cáo đầu thú, tại hồ sơ không thể hiện Biên bản người phạm tội ra đầu thú nên không có cơ sở xem xét; tình tiết bị cáo tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, tình tiết này thể hiện việc bị cáo tự nguyện khai báo, khai rõ hành vi phạm tội được xem là thành khẩn khai báo đã được áp dụng. Riêng hai bị hại Huỳnh Minh Tr và Kiều Xuân V sau khi xét xử sơ thẩm có đơn yêu cầu cấp phúc thẩm xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Xét hình phạt tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo (02 năm 06 tháng tù) là quá nhẹ so với điều luật mà bị cáo bị truy tố. Hành vi của bị cáo thể hiện tính cách xem thường sức khỏe của người khác, Tòa án cấp sơ thẩm không cho bị cáo hưởng án treo là phù hợp nên được giữ nguyên và không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.

[4] Quan điểm của Kiểm sát viên phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[5] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí phúc thẩm do kháng cáo không được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Tuyên bố bị cáo Trương Thành Qu phạm “Tội cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm d khoản 3 (thuộc điểm a khoản 1) Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54, Điều 38 Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Trương Thành Qu 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành hình phạt tù.

[2] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Trương Thành Qu phải nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 61/2021/HS-PT

Số hiệu:61/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về