Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2021/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 58/2021/HS-PT NGÀY 08/06/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 08 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 37/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo Đường Minh T, Đường Ngọc Th do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 05/2021/HS-ST ngày 08 tháng 02 năm 2021 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc.

* Bị cáo có kháng cáo:

1. Đường Minh T (B), sinh năm 1987 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp X, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: mua bán; trình độ học vấn: lớp 4/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Đường Văn H, và bà Nguyễn Thị T; vợ: Nguyễn Thị Kim D; có 02 người con, lớn sinh năm 2016, nhỏ sinh năm 2017; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại có mặt tại tòa.

2. Đường Ngọc Th, sinh năm 1983 tại tỉnh Bến Tre; nơi cư trú: ấp T1, xã T2, huyện B, tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: mua bán; trình độ học vấn: lớp 5/12; giới tính: nam; dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; con ông Đường Văn H, và bà Nguyễn Thị T; vợ: Nguyễn Lệ Th; có 02 người, lớn sinh năm 2013, nhỏ sinh năm 2015; tiền án: không; tiền sự: không; bị cáo tại ngoại có mặt tại tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Đường Minh T và Đường Ngọc Th: Ông Võ Thanh D – Luật sư Công ty luật T thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre.

- Bị hại có yêu cầu tham gia phiên tòa phúc thẩm:

1. Bùi Văn H (N), sinh năm 1990; Nơi cư trú: ấp S, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre. Chỗ ở khác: ấp L, xã T2, huyện B, tỉnh Bến Tre, có mặt.

2. Lê Vũ Hải Â, sinh năm 1989; Nơi cư trú: ấp M 1, xã T1, huyện B, tỉnh Bến Tre, có mặt.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị hại Bùi Văn H và Lê Vũ Hải Â: Luật sư Nguyễn Hữu D, Văn Phòng Luật sư Nguyễn Hữu D, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Trước đây, Đường Hoàng H2 sinh năm 1982, cư trú ấp X, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre có mượn tiền của Trần Thị Ngọc H1 sinh năm 1991, cư trú ấp L, xã T1, huyện B, tỉnh Bến Tre. Ngày 13/11/2019 Bùi Văn H (chồng của H1), Lê Vũ Hải Â, Nguyễn Hoài Th đến nhà Mai Thị C sinh năm 1981, cư trú ấp H, xã T1, huyện B, tỉnh Bến Tre gặp H đòi tiền nhưng H2 không trả, hai bên cự cãi dẫn đến mâu thuẫn nên Bùi Văn H và Nguyễn Hoài Th dùng tay đánh H2 nhiều cái. Sau đó Lê Vũ Hải  điều khiển xe chở H2 đến quán nước Bụi Tre Vàng ở vòng xoay T để H1 nói chuyện việc H2 nợ tiền, tại đây tiếp tục cự cãi, H dùng tay đánh H2. Khoảng 22 giờ ngày 13/11/2019 Lê Vũ Hải  điều khiển xe chở H2, H chở H1, Thương chạy một mình đến nhà mẹ ruột của H2 để nói mẹ của H trả tiền. Khi đến khu vực ngã tư nghĩa trang Lộ 30/4 thuộc ấp Thanh Xuân 2 và G, xã T, huyện B, tỉnh Bến Tre thì Đường Ngọc Th và Đường Minh T thấy anh H2 bị thương chảy máu nên Th hỏi anh H2 “Tụi nó đánh mày phải không”, anh H2 gật đầu và nói “Ừ, tụi nó đánh tao”. Lúc này T và Th xảy ra mâu thuẫn với nhóm người của Trần Thị Ngọc H1, sau đó Th lấy thanh kim loại đâm về phía Lê Vũ Hải  nhưng không trúng, Đường Minh T lấy dao chém vào tay trái của Bùi Văn H, chém vào khuỷu tay phải và bàn tay trái của Lê Vũ Hải Â, T tiếp tục vật H ngã ngửa xuống lộ và dùng tay đánh vào mặt của H nhiều cái. Lúc này Đường Ngọc Th giật dao trên tay T chặt bề sống vào phía trước hai cẳng chân của H. Sau đó Đường Ngọc Th chở Đường Minh T ra về, Lê Vũ Hải  và Bùi Văn H được đưa đến Bệnh viện Nguyễn Đình Chiểu điều trị thương tích. Đến ngày 14/11/2019 Đường Ngọc Th và Đường Minh T đến công an giao nộp con dao và khai nhận hành vi đã thực hiện, riêng thanh kim loại Th đã bỏ mất không thu giữ được.

* Vật chứng:

- Tạm giữ lúc khám nghiệm hiện trường:

+ 01 nón bảo hiểm màu đỏ.

+ 01 nón bảo hiểm màu đen.

+ 02 nón kết màu đen.

+ 01 viên gạch màu đỏ, kích thước 18 x 8 x 3cm (BL số 03).

- Chị Nguyễn Kim Nh giao nộp 01 đĩa DVD có chữ KISHENG, lưu đoạn video thu trong camera nhà chị Nh ghi hình ảnh vụ cố ý gây thương tích ngày 13/11/2019.

- Đường Minh T giao nộp:

+ 01 con dao dài 43,5cm, cán bằng gỗ dài 16,5cm, lưỡi bằng kim loại dài 27cm, có mũi bằng.

+ 01 áo thun tay ngắn, màu trắng.

+ 01 áo khoác màu đỏ, tay dài.

+ 01 quần sọt, lưng có dây buộc màu xám xanh.

- Đường Ngọc Th giao nộp:

+ 01 áo thun màu đen, tay ngắn.

+ 01 quần thun dài màu xanh đen, có sọc chỉ màu vàng xanh.

- Nguyễn Hoài Th giao nộp:

+ 01 áo sơ mi tay dài, màu xanh đen sọc ô vuông màu đỏ trắng, vùng vai trái có vết rách.

+ 01 quần jean lửng, màu xanh bạc, bị rách nhiều chỗ.

Các vật chứng trên: Đối với xe mô tô hiệu HONDA, loại DREAM, số khung HHA0606WY183910, số máy HA05E0183924 thuộc sở hữu của Đường Ngọc Thành, đã trả cho Đường Ngọc Thành và 01 xe mô tô 02 bánh nhãn hiệu HONDA, loại DREAM, biển số 61F1-xxxx, thuộc sở hữu của Nguyễn Hoài Th, đã chuyển cho Công an huyện Mỏ Cày Bắc để giải quyết trong vụ việc khác.

* Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 14-0120/TgT ngày 31/01/2020 của Trung tâm pháp y tỉnh Bến Tre kết luận Lê Vũ Hải  như sau:

1. Dấu hiệu chính qua giám định:

- Bầm đỏ vùng trán trái, kích thước 03cm x 02cm đã hết, không còn để lại vết tích là 00%.

- Vết thương bàn tay trái, đứt lìa đốt giữa ngón IV, đứt lìa đốt xa ngón V, đứt gần lìa đốt giữa ngón II, III.

+ Hiện:

Mất đốt giữa ngón IV là 06% Mất đốt xa ngón V là 01%.

Ngón II, III không gấp - duỗi được; cứng một khớp liên đốt ngón II, III: cứng một khớp liên đốt ngón II là 01%, cứng một khớp liên đốt ngón III là 01%.

- Vết thương khuỷu phải, kích thước 07cm x 02cm đã lành sẹo, kích thước 07cm x 0,5cm là 02%.

+ Xquang khuỷu tay phải: không thấy tổn thương xương.

- Cơ chế hình thành vết thương là do vật sắc nhọn gây ra.

2. Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích là: 11%.

* Theo Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 47/20/TgT ngày 31/3/2020 của Phân Viện pháp y quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh kết luận Bùi Văn H như sau:

- Sẹo kích thước nhỏ vùng khóe ngoài mắt phải là 03%.

- Sẹo kích thước trung bình vùng 1/3 giữa mặt sau trong cẳng tay trái là 03%.

- Sẹo kích thước nhỏ vùng mặt lòng đốt bàn ngón IV, V bàn tay trái là 01%.

- Sẹo kích thước trung bình vùng 1/3 trên mặt sau ngoài cẳng chân trái là 02%.

- Sẹo kích thước nhỏ vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân trái là 01%.

- Sẹo kích thước trung bình vùng gối trái là 02%.

- Sẹo kích thước nhỏ vùng 1/3 trên mặt trước cẳng chân phải là 01%.

- Sẹo kích thước nhỏ vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân phải là 01%.

- Gãy 1/3 giữa xương trụ trái là 08%.

- Gãy 1/3 giữa xương chày trái là 13%.

Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của nạn nhân Bùi Văn H là 30%.

Vết thương vùng cung mày phải và cẳng chân phải của nạn nhân Bùi Văn H do vật tày có cạnh tác động trực tiếp gây nên. Các vết thương vùng cẳng tay trái, bàn tay trái và cẳng chân trái do vật sắc tác động trực tiếp gây nên. Vết sây sát da vùng gối hai bên là vết mài trượt gây nên.

Theo Công văn số 38/PVPYQG-KGĐ ngày 27/8/2020 của Phân Viện pháp y quốc gia tại thành phố Hồ Chí Minh phân tích thương tích của Bùi Văn H như sau:

- Vết thương vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân trái gây ra vết sẹo nhỏ vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân trái và gãy 1/3 giữa xương chày trái.

- Vết thương vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân phải gây ra vết sẹo nhỏ vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân phải.

- Tỷ lệ tổn thương cơ thể từng vết thương gây nên của Bùi Văn H là:

+ Sẹo kích thước nhỏ vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân trái là 01%.

+ Sẹo kích thước nhỏ vùng 1/3 dưới mặt trước cẳng chân phải là 01%.

+ Gãy 1/3 giữa xương chày trái là 13%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên các tổn thương trên của Bùi Văn H là 15%.

- Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên các tổn thương còn lại của Bùi Văn H là 18%.

* Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 05/2021/HS-ST ngày 08/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre đã tuyên bố bị cáo Đường Minh T, Đường Ngọc Th phạm “Tội cố ý gây thương tích”. Áp dụng điểm d khoản 3 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đường Minh T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đường Ngọc Th 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn tuyên về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.

Ngày 22/02/2021, bị cáo Đường Minh T kháng cáo yêu cầu áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo còn 03 năm tù; bị cáo Đường Ngọc Th kháng cáo yêu cầu giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Các bị cáo không thay đổi yêu cầu kháng cáo; khai nhận hành vi phù hợp với nội dung Bản án sơ thẩm.

Các bị hại không đồng ý giảm hình phạt tù theo kháng cáo của các bị cáo.

Quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên thể hiện như sau: Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong thời hạn luật định. Về nội dung: Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố các Đường Minh T, Đường Ngọc Th phạm “Tội cố ý gây thương tích” là có căn cứ. Xét kháng cáo của các bị cáo, sau khi phạm tội ra đầu thú nộp hung khí gây án và khai nhận hành vi phạm tội, do các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần giảm một phần hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị áp dụng điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự. Chấp kháng cáo của bị cáo Đường Minh T, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đường Ngọc Th, sửa Bản án sơ thẩm. Áp dụng điểm d khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Đường Minh T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Đường Ngọc Th từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù không cho hưởng án treo. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Người bào chữa cho các bị cáo cho rằng, các bị cáo có nhân thân tốt, là lao động chính trong gia đình, sau khi phạm tội thì hôm sau ra trình diện, các bị cáo do bức xúc người nhà bị đánh nên đề nghị xem xét cho các bị cáo thêm tình tiết giảm nhẹ phạm tội tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của bị hại gây ra. Đề nghị cho bị cáo Th được hưởng án treo; xử phạt bị cáo T mức hình phạt 03 năm tù.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bị hại trình bày: Theo người bào chữa cho các bị cáo cho rằng, các bị cáo phạm tội bị kích động về mặt tinh thần nhưng khi thực hiện hành vi các bị cáo không hỏi lý do anh H2 vì sao bị đánh mà lại tấn công phía các bị hại nên tinh thần bị kích động không phù hợp để áp dụng cho các bị cáo. Về hình phạt Tòa án cấp sơ thẩm đã có xem xét giảm nhẹ cho các bị cáo. Các bị hại không yêu cầu giảm nhẹ tiếp.

Lời nói sau cùng: Bị cáo T xin lỗi bị hại, yêu cầu Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt 03 năm tù; bị cáo Th yêu cầu xem xét cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo gửi đến Tòa án trong thời hạn kháng cáo phù hợp với quy định tại Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo, người bào chữa, bị hại, người bảo vệ quyền cho bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, có cơ sở xác định: Khoảng 22 giờ ngày 13/11/2019 tại khu vực ngã tư Lộ 30/4 thuộc ấp X và T, xã Thanh Tân, huyện B, tỉnh Bến Tre, Đường Minh T có hành vi dùng dao lưỡi bằng kim loại cán bằng gỗ chém Bùi Văn H và dùng tay đánh vào mặt của H gây tổn hại cơ thể của anh H 18% và có hành vi dùng cùng con dao chém gây thương tích Lê Vũ Hải  làm tổn hại cơ thể của anh  11%. Đường Ngọc Th có hành vi dùng dao lấy từ Đường Minh T chặt bề sống vào phía trước hai chân của Bùi Văn H gây tổn thương cơ thể của anh H 15%.

Với ý thức, hành vi và hậu quả do các bị cáo đã gây ra, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử và tuyên bố bị cáo Đường Minh T phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm d khoản 3 Điều 134 Bộ luật Hình sự và bị cáo Đường Ngọc Th phạm “Tội cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

[3] Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, thấy rằng: Khi áp dụng hình phạt tù Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo như: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng; về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, các bị cáo có nhân thân tốt, đã tự nguyện bồi thường một phần thiệt hại cho bị hại; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại yêu cầu giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo theo các tình tiết giảm nhẹ tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự (cho cả hai bị cáo).

Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo cung cấp thêm tài liệu chứng minh các bị cáo là cháu ngoại của bà Phan Thị Kh là người được tặng bằng khen đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; là cháu gọi Liệt sĩ Đường Văn Ph (là ông họ của các bị cáo); các bị cáo là lao động chính trong gia đình, đều có con còn nhỏ, vợ bị cáo Th đang mang thai con thứ ba; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Th giao nhận thêm tiền bồi thường cho anh H 5.000.000 đồng. Đối với các tình tiết ông Đường Văn Ph - liệt sĩ (là ông họ của các bị cáo), vợ bị cáo Th đang mang thai con thứ ba các tình tiết này không phù hợp để áp dụng cho các bị cáo. Các tình tiết còn lại thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Đối với tình tiết người bào chữa cho bị cáo cho rằng các bị cáo bị kích động về mặt tinh thần do hành vi trái pháp luật của bị hại, thấy rằng khi thực hiện hành vi các bị cáo không tìm hiểu lý do vì sao anh H bị đánh chảy máu, lại có hành động tấn công trước về phía các bị hại nên tình tiết bị kích động không phù hợp để áp dụng cho các bị cáo. Tình tiết các bị cáo đầu thú, tại hồ sơ không thể hiện việc lập biên bản người phạm tội ra đầu thú nên không có cơ sở xem xét.

Do các bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ mới thuộc khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự nên cần giảm một phần hình cho các bị cáo theo Điều 54 Bộ luật hình sự cũng đủ cải tạo giáo dục các bị cáo và cần cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian nên không chấp nhận yêu cầu hưởng án treo của bị cáo Th. Do vậy, chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Th sửa bản án sơ thẩm.

Quan điểm của Kiểm sát viên có phần không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

Quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo, người bảo vệ quyền lợi cho các bị hại có phần không phù hợp với quan điểm của Hội đồng xét xử.

[4] Về án phí, các bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm do kháng cáo có được chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Áp điểm b khoản 1 khoản 2 Điều 355; Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự, chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đường Minh T; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Đường Ngọc Th sửa Bản án sơ thẩm.

1.1. Tuyên bố bị cáo Đường Minh T phạm “Tội cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm d khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Đường Minh T (B) 04 (Bốn) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

1.2. Tuyên bố bị cáo Đường Ngọc Th phạm “Tội cố ý gây thương tích”.

Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đường Ngọc Th 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

[2] Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo Đường Minh T, Đường Ngọc Th không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 58/2021/HS-PT

Số hiệu:58/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bến Tre
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:08/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về