Bản án về tội cố ý gây thương tích số 56/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK LẮK

BẢN ÁN 56/2022/HS-PT NGÀY 01/03/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 13/2022/TLPT-HS, ngày 12/01/2022 đối với bị cáo Trần Chí Đ, về tội “Cố ý gây thương tích”. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 339/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Bị cáo có kháng cáo:

Họ và tên: Trần Chí Đ - Sinh ngày 24/9/1989 tại: tỉnh Đắk Lắk;

Nơi cư trú: đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; nghề nghiệp: Thợ cơ khí; trình độ học vấn: 9/12; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; dân tộc: Kinh; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần L, sinh năm 1956 và bà Hồ Thị C, sinh năm 1958; bị cáo chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân: Tại bản án số 319/2007/HSST ngày 25/12/2007 của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, đã xử phạt Trần Chí Đ 01 năm 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 năm kể từ ngày tuyên án về tội “Cướp giật tài sản” (đã chấp hành xong hình phạt và đã được xóa án tích).

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 15/6/2021 cho đến nay, có mặt tại phiên tòa.

Người bị hại: Anh Phạm Phú Ngọc M - Sinh năm 1976; địa chỉ: Đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 07/3/2021, sau khi đi nhậu về, Trần Chí Đ phụ giúp gia đình dọn đồ để bán bánh đúc trước nhà tại đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk, thì nhìn thấy anh Phạm Phú Ngọc M đang ngồi dùng máy cắt sắt trước vỉa hè nhà anh M tại đường N, phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk. Đ thấy anh M thỉnh thoảng nhìn về phía mình, do có mâu thuẫn trong sinh hoạt từ trước, nên Đ thấy bực tức và khó chịu. Đ đi vào đường luồng nhà mình lấy 01 con dao rựa, có lưỡi và cán bằng kim loại, dài 75cm. Sau đó, Đ cầm dao rựa đi băng qua đường về phía anh M, thấy vậy ông Trần L là cha ruột Đ và mọi người tri hô. Đ tiến đến gần anh M, cầm dao rựa bằng tay phải, chém nhằm vào vùng vai của anh M theo hướng từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, anh M ngước mặt lên nhìn thấy, theo phản xạ anh M giơ tay trái lên đỡ thì cán dao rựa đánh trúng vào giữa khe ngón thứ 1 và ngón thứ 2 của bàn tay trái làm trật khớp bàn tay trái, rồi lưỡi dao rựa trượt xuống trúng phần đầu bên phải của anh M gây thương tích. Thấy vậy, ông L liền chạy đến ôm giữ Đ lại, rồi anh Nguyễn Bá N chạy đến hỗ trợ giật con dao rựa trên tay Đ ra để can ngăn không cho Đ đánh anh M nữa. Sau đó, Đ đi về nhà, còn anh M được mọi người đưa đến Bệnh viện đa khoa thành phố B để chữa trị thương tích.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 400/TgT-TTPY ngày 01/4/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Anh Phạm Phú Ngọc M tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 13%.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích bổ sung số 711/TgT-TTPY, ngày 10/6/2021 của Trung tâm Pháp y tỉnh Đắk Lắk, kết luận: Anh Phạm Phú Ngọc M có tỷ lệ tổn thương cơ thể do từng thương tích gây nên là: Vết thương để lại sẹo nằm dọc giữa đỉnh đầu phải, cách đường giữa 2cm, đầu trước cách chân tóc trán bên phải 8,5cm bờ đều, phẳng gọn, kích thước 5,5cm x 0,1cm, tỷ lệ 2%; Trật khớp đốt bàn - ngón, ngón I bàn tay trái gây cứng khớp đốt bàn - ngón, ngón I bàn tay trái, tỷ lệ 11%.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 339/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk đã quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Chí Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”;

Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Trần Chí Đ 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 15/11/2021, bị cáo Trần Chí Đ có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Trần Chí Đ vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng án treo; bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung vụ án đã được tóm tắt nêu trên.

Quá trình tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích”, theo điểm đ khoản 2 Điều 134 là có căn cứ, đúng người, đúng tội; về mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; bản án sơ thẩm cũng đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ mà bị cáo được hưởng khi quyết định hình phạt và tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo không cung cấp được thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới; bị cáo có nhân thân xấu nên cần thiết phải cách ly bị cáo với xã hội để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo. Do đó kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận.

Đại diện Viện kiểm sát đề nghị: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Chí Đ; giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt; các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo không tranh luận, bào chữa gì thêm và chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai của bị cáo Trần Chí Đ tại phiên tòa phúc thẩm là phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận: Vào khoảng 14 giờ 30 phút, ngày 07/3/2021, tại trước đường N, phường T, thành phố B, bị cáo Trần Chí Đ đã dùng dao rựa, có lưỡi và cán bằng kim loại, dài 75cm chém anh Phạm Phú Ngọc M, hậu quả làm cho anh M bị thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 13%. Chỉ vì bực tức và khó chịu việc anh M nhìn mình, mà bị cáo đã vô cớ dùng dao, là loại hung khí nguy hiểm chém anh M gây thương tích. Do đó, bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a, i khoản 1 và điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật hình sự, là có căn cứ và đảm bảo đúng người, đúng tội.

[2] Đối với kháng cáo đề nghị giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người bị hại, đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an của xã hội; bị cáo phạm tội với 02 tình tiết định khung tăng nặng là “Dùng hung khí nguy hiểm” và “Có tính chất côn đồ”, đồng thời bị cáo có nhân thân xấu, là người đã từng bị kết án nhưng không lấy đó làm bài học mà lại tiếp tục phạm tội, nên cần thiết phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc và cách ly bị cáo với xã hội một thời gian nhất định để đảm bảo việc cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành một công dân tốt; xét về mức hình phạt 02 năm 09 tháng tù mà bản án sơ thẩm đã xử phạt đối với bị cáo, là thỏa đáng và tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện; bản án sơ thẩm cũng đã xem xét áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ khi lượng hình đối với bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo cũng không cung cấp được thêm tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, kháng cáo của bị cáo là không có căn cứ chấp nhận và cần giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo là phù hợp.

[3] Về án phí: Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo Trần Chí Đ phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.

[4] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên Hội đồng xét xử không xem xét và đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Chí Đ; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 339/2021/HS-ST ngày 09/11/2021 của Tòa án nhân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về hình phạt.

Tuyên bố bị cáo Trần Chí Đ phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

Áp dụng: điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Trần Chí Đ 02 (hai) năm 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

[2] Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Trần Chí Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

216
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 56/2022/HS-PT

Số hiệu:56/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đăk Lăk
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:01/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về