Bản án về tội cố ý gây thương tích số 552/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 552/2023/HS-PT NGÀY 17/08/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 15 và 17 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 392/2023/TLPT-HS ngày 31 tháng 5 năm 2023 đối với các bị cáo Nguyễn Tấn T và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2023/HS-ST ngày 18/4/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị cáo có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị:

1. Nguyễn Tấn T, sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 2 B, Phường B, Quận D, Thành phố H nghề nghiệp: Pha chế nhà hàng trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị Ngọc P; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Ngày_giam Bị bắt, tạm giam ngày 11/12/2021măt).

2. Đào Minh Đ1 năm 1998 Thành phố H thường trú: 8 B, phường P, Quận A, Thành phố H ở: 8 B, phường P, Quận A, Thành phố H nghề nghiệp: Nhân viên giao hàng Shopee, trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đào Thanh H1 và bà Lê Thị Kim P1; chưa có vợ, con; tiền sự: không; tiền án: Tại bản án hình sự phúc thẩm số 320/2018/HSPT ngày 09/8/2018, bị Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”, thời gian thử thách là 05 năm, bị cáo chưa chấp hành xong thời gian thử thách. Bị bắt, tạm giam ngày 11/12/2021măt).

3. Lê Anh K1 năm 2000 Thành phố Hồ Chí M thường trú: 1 T, phường P, Quận A, Thành phố H ở: 9 D, Phường B, Quận H, Thành phố H, nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H2 và bà Lê Thị H3 (đã chết); chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không. Bị bắt, tạm giam ngày 11/12/2021măt).

Người bào chữa cho các bị cáo theo chỉ định:

1. Luật sư Nguyễn Thanh Bảo D thuộc Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa cho bị cáo Nguyễn Tấn Tco măt).

2. Luật sư Hồ Hoài N thuộc Đoàn luật sư Thành phố H bào chữa cho bị cáo Đào Minh Đ và bị cáo Lê Anh K (co măt).

- Bị cáo không có kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị: L, Lê Đức T1.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ ngày 10/12/2021, Nguyễn Tấn T cùng Nguyễn Văn P2, Nguyễn Quốc C và bạn gái của C (chưa rõ lai lịch) ngồi uống nước tại trước cửa quán C2, địa chỉ số A đường H, phường B, Quận A, Thành phố C thì thấy Dương Đăng K2 đi vào bên trong quán ngồi cùng Nguyễn Chí T2 và Đoàn Huỳnh Thảo N1. Nghĩ Thành nói xấu T với N1 để ngăn cản Nhi có quan hệ tình cảm với T nên T điện thoại cho Lê Anh K đến hỗ trợ đánh T2 để thỏa cơn bực tức. Lúc này, Lê Anh K đang chơi game cùng với Đào Minh Đ, Lê B, Lê Đức T1, Nguyễn Huỳnh L và Mai Tấn V trước nhà L tại Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh nên Anh K rủ cả nhóm cùng đi. Vì là bạn bè với Nguyễn Tấn T nên khi nghe Anh K rủ thì cả nhóm đồng ý cùng đi.

Khoảng 21 giờ 45 phút cùng ngày, T1 điều khiển xe mô tô biển số 59T2- X chở Anh K; B điều khiển xe mô tô biển số 59C2-X chở Được đến quán C2 gặp T; còn L điều khiển xe mô tô biển số 59C3-X chở V đi sau. Khi gần đến nơi thì L chở V vòng ra phía sau Trường Cao đẳng K3 để đi vệ sinh. Khoảng 22 giờ 05 phút cùng ngày, khi T2 và Đăng K2 đi bộ từ quán C2 sang đường, đến bãi giữ xe của Trường Cao đẳng K3 tại giao lộ H-P, phường B, Quận A T đứng chờ sẵn, lao vào dùng tay, chân đánh T2. Thấy vậy, Đăng K2 vào can ngăn thì bị Anh K2 dùng tay đánh, Đ dùng mũ bảo hiểm chạy đến đánh Đăng Khoa, B lao vào dùng chân đạp ngã rồi tiếp tục đạp vào vai trái Đăng Khoa. Cùng lúc này, Anh K dùng tay, chân đánh, dùng mũ bảo hiểm đập vào T, Đ tiếp tục dùng mũ bảo hiểm đánh 03 cái (hướng thẳng từ trên xuống) trúng vào đỉnh đầu Đăng Khoa. Tiếp đó, T1 chạy đến dùng mũ bảo hiểm đánh vào vùng trước bụng, dùng tay đánh vào vùng vai Đăng Khoa rồi quay lại dùng chân đạp vào người T2, sau đó, cả nhóm điều khiển xe mô tô chạy thoát. T2 thấy Đăng K2 nằm bất tỉnh nên gọi điện thoại báo Công an phường B, Quận A và gọi cấp cứu 115. Qua kiểm tra sơ bộ, tổ cấp cứu ngoại viện A1 Bệnh viện Q ghi nhận Dương Đăng K2 đã chết tại hiện trường.

Ngày 10/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Q1, tiến hành khám nghiệm hiện trường, thu thập chứng cứ tiến hành bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K, L, Lê Đức T1, Mai Tấn V, Nguyễn Huỳnh L. Đến ngày 13/6/2022, Viện kiểm sát nhân dân Quận 1 chuyển vụ án đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H để điều tra theo thẩm quyền.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố H, Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K, L, Lê Đức T1, Mai Tấn V, Nguyễn Huỳnh L đã khai nhận toàn bộ sự việc như trên.

Tại Bản kết luận giám định pháp y tử thi số 6622/KLGĐ-PY ngày 14/02/2022 của Phòng K4 Công an Thành phố C kết luận: Dương Đăng K2 chết do chấn thương sọ não, trong máu không tìm thấy cồn và ma túy, trong máu, chất chứa trong dạ dày và gan, thận tìm thấy A, C1. Mẫu máu của Dương Đăng K2 thuộc nhóm máu B.

Tại Công văn số 423/CV-PC09-Đ4 ngày 30/3/2023 của Phòng K4 Công an Thành phố H giải thích pháp y của Dương Đăng K2 như sau:

1. Các thương tích chính trên nạn nhân:

- Vùng đầu: xây xát da, bầm tụ máu trán trái sát chân tóc, kích thước 3,5cm x 3cm. Xây xát da, bầm tụ máu đỉnh chẩm trái, kích thước 2cm x 2cm. Xây xát da, bầm tụ máu thái dương trái, kích thước 2cm x 1cm. Xây xát da rải rác sống mũi, mi mắt dưới bên phải, má phải và môi trên bên phải, kích thước 7cm x 6cm. Tụ máu nhẹ dưới da rải rác đỉnh chẩm và thái dương trái. Tụ máu nhẹ trong cơ thái dương trái. Hệ thống xương hộp sọ, xương hàm mặt không nứt vỡ. Màng não không dập rách. Xuất huyết dưới màng nhận lan toả thuỳ đỉnh hai bên nhẹ. Não phù và không tổn thương dập xuất huyết. Các khoang não thất không có dịch lạ.

- Kết luận tổn thương vi thể: xuất huyết dưới nhện đại não. Xuất huyết trong thân não và hành não. Phù phổi cấp. Tình trạng rối loạn vi tuần hoàn (ngầm phù, sung huyết và xuất huyết rải rác ở các tạng).

- Cơ chế gây thương tích: các tổn thương ở vùng đầu do tiếp xúc với vật tày. Là tổn thương chấn thương sọ não theo cơ chế hỗn hợp (cơ chế tác động trực tiếp và đầu di động) gây ra.

2. Nhận định: Tay, chân và nón bảo hiểm là vật tày, có thể gây ra các thương tích đầu của nạn nhân.

Kết quả khám nghiệm hiện trường: Hiện trường vụ án tại ngã tư H-P, phường B, Quận A (đối diện quán C2, số A đường H, phường B, Quận A), vị trí phát hiện tử thi Dương Đăng K2 như sau:

Tử thi Dương Đăng K2 mặc áo khoác dài tay màu đen, mặc áo thun màu đen bên trong, mặc quần jean ngắn màu xanh dương, mang giày thể thao màu xám, mặt đeo khẩu trang y tế màu xanh nằm giữa gốc cây xanh số 80 và ghế đá màu xanh trên vỉa hè đường H; phần đầu tử thi hướng vào lề đường (cách tường rào bãi giữ xe khoảng 4,45m), chân hướng ra đường H (cách trụ biển báo phân làn giao thông khoảng 0,95 m). Khu vực xung quanh nơi anh K2 nằm không ghi nhận có dấu vết máu. Dưới lề đường phát hiện 01 chiếc dép bên phải màu đen, có chữ Alaska, kích thước (17x11x7,5)cm; trên lề đường phát hiện 01 mũ bảo hiểm màu xanh đen, có chữ Gojet.

Vật chứng của vụ án:

- 04 đĩa DVD có ghi hình ảnh vụ đánh nhau tại giao lộ H- P, phường B, Quận1 (lưu hồ sơ vụ án);

- 01 dép nhựa quai kẹp màu xanh đen, hiệu Alaska; 01 nón bảo hiểm màu xanh đen có dòng chữ G;

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu xanh, IMEI: 358598937339654 thu giữ của Nguyễn Tấn T;

- 01 điện thoại di động hiệu Redmi Note 8, màu xanh dương, IMEI 1: 862763045771409, IMEI 2: 86276304827; 01 áo thun ngắn tay, màu xanh; 01 quần Kaki ngắn; 01 mũ bảo hiểm màu cam thu giữ của Đào Minh Đ;

- 01 điện thoại di động hiệu S A50S, màu xanh dương, IMEI 1: 358193102316008, IMEI 2: 358194102316006; 01 áo khoác Jean, màu xanh; 01 mũ bảo hiểm màu đen in chữ “PIAGIO” thu giữ của Lê Anh K;

- 01 xe mô tô hiệu Honda WAVE biển số 59T2-X, số máy: JA39E2071827, số khung: RLHJ A3924LY068881 do Lê Anh K đứng tên chủ sở hữu, xe có số khung, số máy nguyên thủy, không thay đổi được Anh K điều khiển đi cùng T1 đến hiện trường đánh nhau.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu trắng, IMEI: 353902109025858; 01 (một) áo thun ngắn tay, màu đen; 01 (một) quần ngắn màu đen thu giữ của Lê B;

- 01 xe mô tô hiệu Honda VARIO, biển số 59C2-X, số máy: JFV1E1489578, số khung: MH1JFV113GK483774 do Lê B đứng tên chủ sở hữu, xe có số khung, số máy nguyên thủy, không thay đổi được B điều khiển đi cùng Được đến hiện trường để đánh nhau.

- 01 điện thoại di động hiệu Iphone, màu Vàng, IMEI: 353948100173148 thu giữ của Lê Đức T1;

Về trách nhiệm dân sự: Ông Dương Xuân M1 là người đại diện gia đình nạn nhân Dương Đăng K2 yêu cầu bồi thường số tiền là 194.000.000 đồng chi phí mai táng và tổn thất tinh thần. Bà Nguyễn Thị Ngọc P (mẹ của bị cáo T) và ông Lê L1 (cha của bị cáo B) mỗi người nộp số tiền 100.000.000 đồng để khắc phục hậu quả; bà Nguyễn Thị T3 (mẹ của bị cáo T1), bà Lê Thị Kim P1 (mẹ của bị cáo Đ) và bà Lê Xuân T4 (chị ruột của bị cáo Lê Anh K) mỗi người nộp số tiền 40.000.000 đồng để khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân Dương Đăng K2. Tổng số tiền các gia đình đã nộp để khắc phục hậu quả cho gia đình nạn nhân Dương Đăng K2 là 320.000.000 đồng theo giấy nộp tiền ngày 07/10/2022.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2023/HS-ST ngày 18/4/2023 Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã xử:

1. Căn cư điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T 20 (hai mươi) năm tù về tôi “Giết ngươi”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2021.

2. Căn cư điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58; Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Đào Minh Đ 20 (hai mươi) năm tù về tôi “Giết ngươi”.

Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 320/2018/HS-PT ngày 09/8/2018 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 23 (hai mươi ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2021.

3. Căn cư điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Lê Anh K 18 (mười tám) năm tù về tôi “Giết ngươi”. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2021.

Ngoài ra, bản án còn tuyên phần hình sự đối với các bị cáo Lê Đức T1, Lê B và phần trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định.

- Ngày 20/4/2023, bị cáo Nguyễn Tấn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo T giữ y yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: bị cáo không có tham gia đánh Đăng Khoa chết, không chỉ đạo đánh như thế nào, hậu quả cái chết của bị hại không mong muốn, bị cáo chỉ kêu Anh K đến hỗ trợ, còn những người khác không có gọi, khi đó bị cáo có nói “chuyện của tao để tao giải quyết” và “có kêu đừng đánh nữa” nhưng không biết mọi người có nghe hay không, trước khi rời đi thấy khoa còn cử động, T2 đứng dậy, không nghĩ Khoa chết nên mới đi về, không phải bỏ mặt.

- Ngày 24/4/2023, bị cáo Đào Minh Đ kháng cáo cho rằng án phạt 20 năm tù là quá nặng, xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Đ giữ y yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: bị cáo rất ăn năn hối hận hành vi gây ra cái chết cho nạn nhân, kết tội “Giết người” là không oan, mức án 20 năm tù là quá nặng.

- Ngày 24/4/2023, bị cáo Lê Anh K kháng cáo cho rằng án phạt 18 năm tù là quá nặng, xin giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Anh K giữ y yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do: bị cáo rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội, do mẹ mất sớm, tuổi trẻ bồng bột thiếu suy nghĩ, án xử tội “Giết người” là không oan chỉ xin xét giảm mức hình phạt.

Luật sư Nguyễn Thanh Bảo D bào chữa cho bị cáo T trình bày: Hành vi của các bị cáo gây ra hậu quả chết người, bị cáo T thừa nhận hành vi và xin giảm nhẹ hình phạt. Theo tôi việc kết tội bị cáo T về tội “Giết người” là có khiêng cưỡng, bị cáo không có bàn bạc, hay chuẩn bị hung khí gì cho việc đánh nhau, bị cáo có trình bày khi đánh thì có nói “chuyện của tao để tao giải quyết”, bị cáo không mong muốn hậu quả chết người, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo không tham gia đánh bị hại, không tác động trực tiếp bị hại. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Luật sư Hồ Hoài N bào chữa cho hai bị cáo Đào Minh Đ và Lê Anh K trình bày: Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm hôm nay các bị cáo đều khai nhận hành vi phạm tội, các bị cáo đều có nhiều tình tiết giảm nhẹ, quá trình học tập đều có hạnh kiểm tốt. Bị cáo Anh K điều kiện gia đình mẹ mất sớm thiếu sự giáo dục, bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng Điều 54 Bộ luật hình sự để xử dưới khung hình phạt. Đề nghị Hội đồng xét xử cân nhắc xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa nêu quan điểm: tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới, án sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Giết người” là có căn cứ, bị cáo T là người khởi xướng, bị cáo Anh K và Đ dùng mũ bảo hiểm tấn công bị hại Đăng Khoa đến chết chỉ vì những mâu thuẫn nhỏ nhặt nên các bị cáo phạm tội với tình tiết định khung có tính chất côn đồ theo điểm n khoản 1 Điều 123 Bộ luật hình sự. Mặc dù, các bị cáo có ăn năn hối cải, phần trách nhiệm dân sự đã bồi hoàn xong; bị cáo T tuy không trực tiếp đánh bị hại nhưng là người chủ mưu, khởi xướng, kêu gọi Anh K hỗ trợ đánh nhau, khi các bị cáo đánh bị hại thì bị cáo T không có can ngăn, không ai nghe T nói gì, nên hậu quả chết người thuộc trách nhiệm chung của các bị cáo. Xét hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, cố ý phạm tội, nên cần áp dụng hình phạt nghiêm minh để răn đe, phòng ngừa chung. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo T và Đ hình phạt 20 năm tù, bị cáo K 18 năm tù là đúng người, đúng tội, không oan và tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo. Tại cấp phúc thẩm các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ mới, không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Đơn kháng cáo của các bị cáo làm trong hạn luật định nên được chấp nhận và xem xét giải quyết theo trình tự phúc thẩm.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Tấn T, Lê Anh K, Đào Minh Đ khai nhận toàn bộ hành vi, sự việc như bản cáo trạng, bản án sơ thẩm nêu. Chỉ vì xuất phát từ việc Nguyễn Tấn T nghĩ rằng Nguyễn Chí T2 nói xấu mình nên T đã gọi điện thoại cho Lê Anh K đến hỗ trợ đánh T2 và được Anh K đồng ý. Anh K đã gọi thêm Đào Minh Đ, Lê B và Lê Đức T1 cùng đi. Khoảng 22 giờ 05 phút ngày 10/12/2021, T phát hiện T2 và Dương Đăng K2 đi bộ đến bãi xe tại giao lộ H-P, phường B, Quận A, Thành phố Hồ Chí Minh thì T xông vào dùng tay, chân đánh T2. Thấy T2 bị đánh, Đăng K2 lao vào can ngăn thì bị Đ, Anh K, B, T1 dùng tay, chân và nón bảo hiểm đánh liên tục nhiều cái vào người và đầu làm cho Đăng K2 bị chấn thương sọ não dẫn đến tử vong tại chỗ (Theo Kết luận giám định pháp y tử thi số 6622/KLGĐ-PY ngày 14/02/2022 và Công văn giải thích pháp y tử thi số 423/CV-PC09-Đ4 ngày 30/3/2023 của Phòng K4 Công an Thành phố H).

[3] Xét thấy, sự việc các bị cáo Anh K2, Đ, Lê B và T1 chỉ vì muốn bênh vực cho bị cáo T nên đã dùng tay, chân và nón bảo hiểm đánh nhiều lần vào vùng đầu, vùng bụng của Dương Đăng K2 dẫn đến chấn thương sọ não tử vong tại chỗ, các bị cáo có đầy đủ nhận thức và ý thức được việc đánh vào vùng đầu, bụng của nạn nhân là vùng trọng yếu sẽ dẫn đến hậu quả chết người nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo và người bào chữa cho bị cáo T cho rằng các bị cáo không biết trước hậu quả chết người, không mong muốn giết chết nạn nhân nhưng với các hành vi trên đã đủ yếu tố cấu thành tội giết người; hành vi của bị cáo Anh K2, Đ là người dùng nón bảo hiểm đánh vào vùng đầu của nạn nhân và nạn nhân tử vong do chấn thương sọ não, hai bị cáo B và T1 chỉ dùng tay, chân đánh, đạp nạn nhân nhưng các bị cáo đều cùng tham gia đánh, không ai có động thái nào can ngăn các bị cáo khác dừng đánh bị hại, bị cáo T cho rằng có kêu dừng đánh nhưng không ai nghe, không có chứng cứ để chấp nhận nên các bị cáo phải chịu trách nhiệm về hậu quả chung của nhiều hành vi xâm hại đến sức khỏe, tính mạng làm cho bị hại chết.

[4] Đối với bị cáo Nguyễn Tấn T tuy không trực tiếp tham gia đánh bị hại Đăng Khoa nhưng chính bị cáo là người chủ động, dự tính việc sẽ đánh nhau với T2 nên trước đó đã gọi điện thoại cho bị cáo Anh K2 hỗ trợ đánh nhau, bị cáo Anh K2 thống nhất với T và ngay khi bị cáo Anh K2 xuất hiện cùng với Đ, B và T1 thì bị cáo T bắt đầu tấn công T2, đánh T2, khi bị hại Đăng Khoa vào can thì ngay lập tức bị nhóm các bị cáo cùng tấn công đánh đến tử vong, bị cáo T không có động thái nào can ngăn việc các bị cáo đánh Đăng Khoa. Tuy tất cả các bị cáo đều không có bàn bạc, trao đổi, phân công việc ai đánh ai, đánh như thế nào nhưng tất các các bị cáo đều thống nhất hành động đánh nhau giúp cho T giải quyết mâu thuẫn cá nhân, không ai ngăn cản việc đánh nhau nên hậu quả bị hại Đăng Khoa chết thuộc trách nhiệm chung của các bị cáo. Hành vi của các bị cáo là cố ý, với một lực lượng áp đảo, đánh vào các vùng trọng yếu trên cơ thể người, tiếp tục đánh ngay cả khi bị hại đã ngã xuống đất, không còn khả năng chống cự, là hành vi giết người chứ không phải cố ý gây thương tích. Do đó, Hội đồng xét xử không chấp nhận quan điểm của bị cáo T và luật sư bào chữa cho bị cáo.

[5] Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của Dương Đăng K2 làm nạn nhạn tử vong tại chỗ, các bị cáo đã gây ra nỗi đau thương mất mát to lớn cho gia đình nạn nhân không có gì bù đắp được. Hành vi của các bị cáo Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K, Lê B, Lê Đức T1 phạm tội “Giết người” với tình tiết định khung tăng nặng “Có tính chất côn đồ” theo điểm n khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, cấp sơ thẩm quy kết đối với các bị cáo là hoàn toàn có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan cho các bị cáo.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo nhận thấy:

Các bị cáo Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K, L, Lê Đức T1 phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, bị cáo T là người giữ vai trò chính, chủ mưu khởi xướng việc đánh nhau, bị cáo Anh K trực tiếp kêu gọi thêm Được, B, T1 tham gia đánh nhau và cùng với bị cáo Đ là người giúp sức tích cực, trực tiếp dùng mũ bảo hiểm đánh vào vùng đầu của nạn nhân, hai bị cáo B và T1 là người giúp sức tích cực dùng tay, chân đánh hậu quả gây ra là nạn nhân Đăng Khoa bị chấn thương sọ não tử vong tại chỗ. Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, vai trò của từng bị cáo nhận thấy hành vi phạm tội của các bị cáo rất dã man, với một lực áp đảo, đánh vào các vùng trọng yếu của nạn nhân, tiếp tục đánh ngay cả khi nạn nhân đã ngã xuống đất không còn khả năng chống cự và tử vong tại chỗ. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định hình phạt đối với bị cáo T 20 năm tù và bị cáo Đ 20 năm tù, bị cáo K 18 năm tù là thỏa đáng, đã có cân nhắc, xem xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của từng bị cáo, cũng đã xem xét thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, việc khắc phục bồi thường toàn bộ phần trách nhiệm dân sự cho gia đình nạn nhân và các tình tiết giảm nhẹ khác đối với từng bị cáo. Tại cấp phúc thẩm gia đình của các bị cáo Đ, K có đơn đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo vì các bị cáo có nhân thân tốt, quá trình học tập có hạnh kiểm tốt, con ngoan, các bị cáo đều thành khẩn khai báo và biết ăn năn hối cải,… đây không thuộc các tình tiết giảm nhẹ mới đã được cấp sơ thẩm xem xét. Và đối với bị cáo T tuy có đơn của ông Dương Xuân M1 cha ruột của nạn nhân xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T, cho rằng “kết quả sự việc xảy ra là ngoài ý muốn của bị cáo, bị cáo T không tham gia xâm phạm đến tính mạng của Dương Đăng K2”, là tình tiết giảm nhẹ mới được áp dụng cho bị cáo T thuộc khoản 2 điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 nhưng cũng không được chấp nhận để giảm nhẹ thêm hình phạt cho bị cáo bởi tính chất, mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội đã nêu. Với mức án mà cấp sơ thẩm áp dụng là phù hợp, tương xứng vời từng bị cáo cần giữ y buộc các bị cáo chấp hành mới đảm bảo được tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo trở thành công dân tốt, sống có ích cho xã hội và nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[6] Đối với các bị cáo Lê B, Lê Đức T1 không có kháng cáo, kháng nghị nên không xem xét.

[7] Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa đề nghị bác kháng cáo của các bị cáo giữ y án sơ thẩm phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[8] Các bị cáo T, Được, Anh K phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo luật định do kháng cáo không được chấp nhận.

[9] Các nội dung khác trong quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 161/2023/HS-ST ngày 18/4/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể tuyên:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K phạm tội “Giết người”.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn T: 20 (Hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2021.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 58; Điều 56 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Đào Minh Đ: 20 (hai mươi) năm tù.

Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 320/2018/HS-PT ngày 09/8/2018 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là: 23 (hai mươi ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2021.

- Áp dụng: điểm n khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Lê Anh K: 18 (mười tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/12/2021.

Tiếp tục tạm giam các bị cáo theo quyết định của Hội đồng xét xử để đảm bảo việc thi hành án.

2. Các nội dung khác trong quyết định Bản án hình sự sơ thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

3. Các bị cáo Nguyễn Tấn T, Đào Minh Đ, Lê Anh K mỗi bị cáo phải nộp án phí hình sự phúc thẩm là: 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng), để sung quỹ Nhà nước.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

83
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 552/2023/HS-PT

Số hiệu:552/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về