TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 53/2022/HS-ST NGÀY 27/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 27 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 48/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 9 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 41/2022/QĐXXST- HS ngày 16 tháng 9 năm 2022 đối với bị cáo:
Phạm Công H, sinh năm 2000 tại huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương; Nơi cư trú: thôn An T, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương; nghề ngH: Lao động tự do; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; Con ông Phạm Văn M(đã chết) và bà Bùi Thị T; Tiền sự: không;
Tiền án: Bản án Hình sự phúc thẩm số 41 ngày 09/5/2018 của TAND tỉnh Hải Dương xử phạt Phạm Công H 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm về tội "Cố ý gây thương tích".
Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 239 ngày 07/11/2016 của Công an huyện Tứ Kỳ phạt cảnh cáo đối với Phạm Công H về hành vi đánh nhau.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 12/8/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương.
- Bị hại:
1. Anh Nguyễn Hoàng H, sinh năm 2001 Địa chỉ: thôn Quý C, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương 2. Anh Đoàn Văn H, sinh năm 1993 Địa chỉ: thôn Hàm C, xã Hà T, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Bà Trần Thị L, sinh năm 1980 Địa chỉ: thôn Quý C, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương 2. Anh Vũ Xuân Q, sinh năm 1997 Địa chỉ: khu Hoàng X, thị trấn An L, huyện An l, thành phố Hải Phòng.
- Người làm chứng:
1. Ông Phạm Đình G, sinh năm 1965
2. Bà Trần Thị L, sinh năm 1965
3. Ông Nguyễn Xuân H, sinh năm 1976
4. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1987
5. Anh Trần Văn M, sinh năm 1995
6. Anh Trần Văn K, sinh năm 1983 (Tại phiên tòa có mặt bị cáo H, anh H, anh H, bà L, anh Q. Vắng mặt những người làm chứng).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Phạm Công H và anh Nguyễn Hoàng H, sinh năm 2001, trú tại: Thôn Quý C, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương có quan hệ bạn bè chơi với nhau. Do anh H có cầm của H số tiền 1.000.000 đồng, H đã nhiều lần đòi nhưng anh H không trả. Khoảng 11 giờ ngày 29/3/2022, anh H rủ anh Đoàn Văn H, sinh năm 1993, trú tại: Thôn Hàm Cách, xã Hà Thanh, huyện Tứ Kỳ (là bạn) về nhà mình ở thôn Quý Cao chơi, anh H đồng ý. Khi về đến cổng nhà, anh H nhắn tin cho H với nội dung đang ở nhà và bảo H “đến mà đòi tiền”. Sau đó anh H mở cửa nhà vào gian bếp cầm 01 con dao bằng kim loại, dạng dao bầu dài khoảng 25cm, phần chuôi bằng gỗ dài khoảng 08cm, lưỡi dao dài khoảng 17cm, có một mặt cắt sắc, đầu nhọn ra sân ngồi bổ quả Dừa lấy nước uống. Khoảng 12 giờ cùng ngày H điều khiển xe máy nhãn hiệu Exciter, mầu sơn xanh (xe cũ H mua lại không nhớ biển số) đến nhà anh H. H dựng xe ở đường bê tông trước cổng nhà anh H rồi đi bộ vào sân, đến ngồi gần anh H, H đòi anh H trả số tiền 1.000.000 đồng nhưng anh H không đồng ý. Anh H có móc tiền trong túi quần ra và nói:“Tao đầy tiền nhưng tao không trả", dẫn đến hai bên to tiếng, cãi chửi nhau. Quá trình cãi chửi nhau, H nói với anh H nếu “xin” thì sẽ “cho” số tiền trên, anh H bảo “Tao không cần”. H và anh H tiếp tục xô đẩy nhau bằng chân tay, anh H thấy hai bên xô đẩy nhau, nên đã khóa cổng nhà anh H lại. Lúc này H nhìn thấy tại vị trí sân trước cửa nhà có con dao bầu mà H dùng bổ Dừa để tại nền sân, H chạy ra lấy con dao cầm trên tay phải rồi chạy đến đâm 01 nhát trúng vào vùng lưng bên trái anh H, làm anh H bị thương chẩy máu vùng lưng. Thấy vậy, anh H chạy lại can ngăn thì H cầm dao giơ lên chém về phía anh H, anh H dùng hai tay đỡ, bắt được tay cầm dao của H, hai bên giằng co, anh H bị ngã ngửa ra sân. Quá trình giằng co, lưỡi dao văng trúng gò má trái của anh H, sau đó con dao bị rơi xuống sân, H cầm dao lên tiếp tục chém 01 nhát vào vùng trán của anh H làm rơi chiếc mũ H đang đội trên đầu. Khi anh H và H đang tiếp tục giằng co thì anh H chạy vào trong nhà lấy 01 ống tuýp sắt dài 100 cm, đường kính 2,6 cm cầm trên hai tay chạy ra sân vụt trúng vùng vai trái H. H cầm dao trên tay phải quay lại đâm 02 nhát về phía anh H, 01 nhát trúng vào vùng lưng, 01 nhát trúng vào mạn sườn bên phải của anh H, làm anh H bị thương nằm gục xuống sân. Thấy anh H bị thương H bỏ dao xuống sân, cầm giấy vệ sinh định lau vết thương cho anh H thì anh H bảo đừng động vào. Sau đó H cầm dao trèo qua tường bao ra cổng điều khiển xe máy bỏ trốn khỏi địa phương, trên đường bỏ trốn H đã vứt con dao ven đường (không xác định được vị trí). Anh H và H được mọi người đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện Ninh Giang, sau đó anh H được chuyển lên Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương điều trị đến ngày 13/4/2022 thì ra viện. Anh H được rửa khâu vết thương tại Trung tâm y tế huyện Ninh Giang và mua thuốc về nhà điều trị, không nằm viện. Đến ngày 09/8/2022, H về nhà thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tứ Kỳ triệu tập làm việc (bút lục số 198- 199).
Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 143a ngày 18/5/2022 của Trung tâm giám định pháp y- Sở y tế Hải Dương kết luận anh Nguyễn Hoàng H bị: 02 vết thương vùng lưng trái, phải gây rách cơ gãy mảng sống D11 bên trái, tụ máu sau phúc mạc phải, đã mổ thăm dò ổ bụng bằng nội soi. Hiện ổn định, để lại 06 sẹo vết thương, mổ, dẫn lưu kích thước trung bình và nhỏ. Các tổn thương trên có đặc điểm do vật nhọn sắc gây nên, anh H bị người khác dùng dao (dạng dao bầu) đâm gây ra là phù hợp. Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 18% (mười tám phần trăm).
Tại Bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 143b ngày 18/5/2022 của Trung tâm giám định pháp y- Sở y tế Hải Dương kết luận anh Đoàn Văn H bị: 02 vết thương phần mềm vùng mặt ở trán phải, gò má trái kích thước nhỏ. Các tổn thương trên có đặc điểm do vật sắc gây ra, anh H bị người khác dùng dao (dạng dao bầu) chém gây ra là phù hợp. Tỷ lệ tổn thương có thể do thương tích gây ra hiện tại là 06% (sáu phần trăm) (bút lục số 127- 128).
Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKSTK, ngày 12 /9/2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ truy tố bị cáo Phạm Công H về tội Cố ý gây thương tích theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự;
Tại phiên tòa:
- Bị hại anh Đoàn Văn H trình bày: Đối với thương tích mà bị cáo gây ra cho anh, anh đề nghị xem xét giải quyết theo quy định pháp luật; đối với chi phí điều trị vết thương anh đề nghị buộc bị cáo H phải bồi thường cho anh chi phí điều trị là 1.200.000đ (một triệu hai trăm nghìn đồng) và bồi thường về tổn thất về tinh thần theo quy định pháp luật - Bị hại anh Nguyễn Hoàng H trình bày: nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo H gây thương tích cho anh cũng có một phần lỗi của anh. Đối với thương tích bị cáo gây ra anh đề nghị HĐXX xem xét xử lý theo quy định pháp luật và đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường cho anh và bà Liễu tổng số tiền 71.990.381 đồng bao gồm chi phí điều trị, đi lại, ăn uống và tiền mất thu nhập. Ngoài ra anh H còn đề nghị bị cáo H phải bồi thường về tổn thất tinh thần theo quy định pháp luật.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị L nhất trí với ý kiến trình bày của anh H và đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường cho bà tiền mất thu nhập cho những ngày bà chăm sóc cho anh H tại bệnh viện.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan anh Vũ Xuân Q không yêu cầu bị cáo phải bồi thường số ngày mất thu nhập do phải nghỉ làm chăm sóc anh H.
- Bị cáo Phạm Công H thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình công nhận quyết định truy tố của VKSND huyện Tứ Kỳ là đúng và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự bị cáo nhất trí bồi thường cho anh H, anh H và bà Liễu các khoản tiền là chi phí điều trị, đi lại, ăn uống và tiền mất thu nhập như anh H, anh H và bà Liễu đề nghị.
Đại diện VKSND huyện Tứ Kỳ giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX ) tuyên bố bị cáo Phạm Công H phạm tội "Cố ý gây thương tích"; Áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự; Điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS xử phạt bị cáo H từ 30- 33 tháng tù. Áp dụng khoản 2 Điều 56 BLHS, khoản 5 Điều 65 BLHS tổng hợp với 24 tháng tù cho hưởng án treo của bản án số hình sự phúc thẩm số 41 ngày 09/5/2018 của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương, buộc bị cáo phải chấp hành từ 54 tháng đến 57 tháng tù, bị cáo được trừ 11 tháng 12 ngày đã bị tạm giam (từ 02/6/2017- 09/5/2018), thời hạn tính từ ngày tạm giam ngày 12/8/2022.
- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS, tịch thu cho tiêu hủy đối với 01 ống tuýp sắt dài 100cm, đường kính 2,6cm, 01 mũ bằng vải, màu trắng, 04 đoạn giấy màu trắng, loại giấy vệ sinh, trên bề mặt có dính nhiều vết màu nâu đỏ, đã khô.
- Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 của BLHS, các điều 584, 585, 586, 590 BLDS buộc bị cáo Phạm Công H phải bồi cho anh anh Đoàn Văn H 1.200.000 đồng và bồi thường tổn thất về tinh thần theo quy định của pháp luật là 02 tháng lương cơ bản tương đương (1.490.000x 2) = 2.980.000 đồng. Bồi thường cho anh Nguyễn Hoàng H 71.990.381 đồng (gồm 16 ngày anh H điều trị tại bệnh viện và 30 ngày sau khi ra viện không lao động được, tương ứng mỗi ngày 300.000 đồng là 13.800.000 đồng; tiền thuốc, viện phí là 20.232.563 đồng, tiền thuốc điều trị là 17.205.000 đồng, tiền dầu gội khô và gel bôi vết thương là 652.818 đồng; tiền thuê giường nằm là 4.000.000 đồng, tiền thuê xe cấp cứu là 500.000 đồng, tiền mua sữa dùng cho người mổ là 4.500.000 đồng tiền thuê xe đi chăm xóc là 1.500.000 đồng, tiền ăn trong quá trình chăm sóc là 1.600.000 đồng, tiền mất thu nhập 16 ngày do bà Liễu phải nghỉ làm chăm sóc H là 8.000.000 đồng) và tiền tổn thất về tinh thần theo quy định của pháp luật là 08 tháng lương cơ bản tương đương (1.490.000x 8)= 11.920.000 đồng.
Ngoài ra đại diện VKS còn đề nghị về án phí theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tứ Kỳ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến hoặc kH nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người làm chứng, vật chứng đã thu giữ, phù hợp với các bản kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 29/03/2022, tại khu vực sân nhà chị Trần Thị L ở thôn Quý C, xã Nguyên G, huyện Tứ K, tỉnh Hải Dương. Do có mâu thuẫn với nhau trong việc nợ tiền giữa Phạm Công H và Nguyễn Hoàng H dẫn đến sô sát. Phạm Công H đã sử dụng 01 con dao bằng kim loại, dạng dao bầu dài khoảng 25cm, phần chuôi bằng gỗ dài khoảng 08cm, lưỡi dao dài khoảng 17 cm, có một mặt cắt sắc, đầu nhọn đâm 02 nhát vào vùng lưng, 01 nhát vào vùng sườn phải anh H làm anh H bị thương, mức độ tổn thương cơ thể do thương tích gây lên là 18% (mười tám phần trăm) và chém 01 nhát vào gò má trái, 01 nhát vào trán phải anh Đoàn Văn H làm anh H bị thương, mức độ tổn thương cơ thể do thương tích gây lên là 06% (sáu phần trăm).
[3] Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi dùng dao là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện, tổn thương cơ thể do thương tích gây ra với anh H là 18 % với anh H là 06% nên hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội "Cố ý gây thương tích" với tình tiết định khung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự. Do đó, cáo trạng của VKSND huyện Tứ Kỳ truy tố đối với bị cáo Phạm Công H là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân và ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự an ninh trên địa bàn. Do vậy, cần phải được xử lý nghiêm minh theo quy định của pháp luật.
[5] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bản án Hình sự phúc thẩm số 41 ngày 09/5/2018 của TAND tỉnh Hải Dương xử phạt Phạm Công H 24 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm về tội "Cố ý gây thương tích". Tính đến lần phạm tội này mặc dù chưa hết thời gian thử thách của án treo nhưng thời điểm trước đây bị cáo phạm tội là người dưới 16 tuổi nên căn cứ khoản 7 Điều 91 và điểm a khoản 1 Điều 107 BLHS, xác định bị cáo không có án tích và không phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS, mặt khác nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo gây thương tích cho anh H cũng có lỗi một phần của anh H khi nợ tiền bị cáo nhưng không trả và có những lời lẽ thách thức bị cáo cũng như có hành vi dùng tuýp sắt đánh bị cáo nên HĐXX xem xét áp dụng cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ người bị hại cũng có lỗi theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Xem xét toàn diện vụ án thì thấy bị cáo đã từng bị xét xử, bị xử phạt hành chính về các hành vi xâm phạm sức khỏe của người khác nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rút kinh nghiệm cho bản thân mà tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo là người coi thường pháp luật nên cần áp dụng hình phạt tù, cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như có tác dụng phòng ngừa chung. Bị cáo phạm tội trong thời gian thử thách của bản án trước nên ngoài việc quyết định hình phạt của lần phạm tội này cần tổng hợp với hình phạt của bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để buộc bị cáo phải chấp hành chung hình phạt của cả hai bản án.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan yêu cầu bị cáo phải bồi thường cụ thể:
- Anh Đoàn Văn H yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền điều trị là 1.200.000đ và tiền tổn thất tinh thần theo quy định của pháp luật.
- Anh Nguyễn Hoàng H và bà Trần Thị L yêu cầu bị cáo phải bồi thường số tiền 71.990.381 đồng (gồm 16 ngày anh H điều trị tại bệnh viện và 30 ngày sau khi ra viện không lao động được, tương ứng mỗi ngày 300.000 đồng là 13.800.000 đồng; tiền thuốc, viện phí là 20.232.563 đồng, tiền thuốc điều trị là 17.205.000 đồng, tiền dầu gội khô và gel bôi vết thương là 652.818 đồng; tiền thuê giường nằm là 4.000.000 đồng, tiền thuê xe cấp cứu là 500.000 đồng, tiền mua sữa dùng cho người mổ là 4.500.000 đồng tiền thuê xe đi chăm xóc là 1.500.000 đồng, tiền ăn trong quá trình chăm sóc là 1.600.000 đồng, tiền mất thu nhập 16 ngày cho người chăm sóc H là 8.000.000 đồng). Ngoài ra anh H còn yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiền tổn thất về tinh thần theo quy định của pháp luật.
Xem xét đối với các yêu cầu bồi thường của anh H, anh H và bà Liễu về các chi phí điều trị, ăn uống, đi lại và ngày công mất thu nhập, mặc dù có những khoản chi phí bị hại và người liên quan không xuất trình được tài liệu chứng cứ nhưng xét thấy những khoản chi phí này là những khoản chi phí thiết thực và cần thiết cho việc điều trị, chăm sóc đối với bị hại, mặt khác quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đồng ý bồi thường những khoản tiền này cho bị hại và người liên quan nên cần chấp nhận yêu cầu của bị hại, người liên quan để buộc bị cáo phải bồi thường cho những người này số tiền nêu trên.
Đối với yêu cầu của anh H và anh H đề nghị buộc bị cáo phải bồi thường tổn thất về tinh thần thì thấy: đối với thương tích 18% bị cáo gây ra với anh H cũng có lỗi một phần của anh H nên anh H yêu cầu bị cáo phải bồi thường tiền tổn thất tinh thần theo quy định pháp luật thì thấy chỉ có căn cứ chấp nhận một phần yêu cầu của anh H để buộc bị cáo phải bồi thường cho anh H tiền tổn thất về tinh thần là 03 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định là: 3 x 1.490.0000đ = 4.470.000đ là phù hợp. Đối với thương tích của anh H là 06% do bị cáo gây ra nên cần buộc bị cáo phải bồi thường cho anh H tiền tổn thất về tinh thần là 02 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định là: 2 x 1.490.0000đ = 2.980.000đ là phù hợp.
Như vậy bị cáo phải bồi thường cho anh H, anh H và bà Liễu gồm:
- Bồi thường cho anh H: 1.200.000đ + 2.980.000đ = 4.180.000đ (bốn triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) - Bồi thường cho anh H, bà Liễu: 71.990.381 đ + 4.470.000đ = 76.460.381đ (bẩy mươi sáu triệu bốn trăm sáu mươi nghìn ba trăm tám mươi mốt đồng). Anh H đồng ý để bà Liễu nhận thay số tiền bị cáo bồi thường.
Tổng cộng số tiền mà bị cáo phải bồi thường là: 80.640.381đ (tám mươi triệu sáu trăm bốn mươi nghìn ba trăm tám mươi mốt đồng) [7] Về xử lý vật chứng: Đối với gồm 01 ống tuýp sắt; 01 mũ vải; 04 đoạn giấy màu trắng là vật chứng của vụ án, không còn giá trị nên cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Đối với hành vi anh H dùng tuýp sắt vụt vào vai trái bị cáo H, bị cáo không bị thương không phải đi điều trị nên Cơ quan điều tra không đặt ra vấn đề xử lý với anh H là phù hợp quy định của pháp luật.
[8] Về án phí: Bị cáo phạm tội và phải bồi thường về trách nhiệm dân sự nên bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 134, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 56, khoản 5 Điều Điều 38 BLHS.
1. Tuyên bố: Bị cáo Phạm Công H phạm tội "Cố ý gây thương tích" - Xử phạt bị cáo Phạm Công H 30 (ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp với hình phạt 24 (hai mươi tư) tháng tù cho hưởng án treo về tội Cố ý gây thương tích của Bản án Hình sự phúc thẩm số 41/2018/HS-PT ngày 09/5/2018 của TAND tỉnh Hải Dương, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai bản án là 54 (năm mươi tư) tháng tù, được trừ thời gian bị cáo bị tạm giam từ ngày 02/6/2017 đến ngày 09/5/2018 là 11 (mười một) tháng 12 (mười hai) ngày, bị cáo còn phải chấp hành 42 (bốn mươi hai) tháng 18 (mười tám) ngày tù, thời hạn tù tình từ ngày bắt tạm giam 12/8/2022.
2. Về trách nhiệm dân sự: Căn cứ khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Các Điều 584, Điều 585, Điều 586, Điều 590, Điều 357, khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự; Buộc bị cáo Phạm Công H phải bồi thường:
- Bồi thường cho anh Đoàn Văn H số tiền: 4.180.000đ (bốn triệu một trăm tám mươi nghìn đồng) - Bồi thường cho anh Nguyễn Hoàng H và bà Trần Thị L số tiền 76.460.381đ (bẩy mươi sáu triệu, bốn trăm sáu mươi nghìn ba trăm tám mươi mốt đồng) do bà Liễu nhận thay anh H.
Tổng cộng số tiền mà bị cáo phải bồi thường là: 80.640.381đ (tám mươi triệu sáu trăm bốn mươi nghìn ba trăm tám mươi mốt đồng).
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn đề nghị thi hành án, người phải thi hành án không tự nguyện thi hành những khoản tiền trên thì phải trả lãi đối với số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả. Lãi suất phát sinh do chậm trả tiền được xác định theo quy định tại Điều 357, Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015.
3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c Điều 47 BLHS, điểm a, c khoản 2 Điêu 106 BLTTHS tịch thu tiêu hủy: 01 ống tuýp sắt; 01 mũ vải; 04 đoạn giấy màu trắng.
(Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan CSĐT Công an huyện Tứ Kỳ và Chi cục thi hành án dân sự huyện Tứ Kỳ ngày 16 /9/2022 ).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí toà án. Bị cáo Phạm Công H phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm và 4.032.000đ (Bốn triệu không trăm ba mươi hai nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo; người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan đến mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/9/2022.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 53/2022/HS-ST
Số hiệu: | 53/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tứ Kỳ - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 27/09/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về