Bản án về tội cố ý gây thương tích số 531/2023/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 531/2023/HS-PT NGÀY 14/07/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 14 tháng 7 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 109/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo Hoàng Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2022/HS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

- Bị cáo có kháng cáo: Hng Văn T sinh ngày 11 tháng 7 năm 1976, tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn T1, xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): Lớp 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn T5 và bà Lê Thị L; có vợ là Phan Thị TH và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 19/02/2022; có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Tống Minh H - Công ty Luật V thuộc Đoàn Luật sư thành phố Hà Nội; có mặt.

- Bị cáo không kháng cáo, không bị kháng cáo, không bị kháng nghị (không triệu tập đến phiên tòa):

1. Đinh Văn C sinh ngày 13 tháng 01 năm 1989 tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn C1, xã C2, huyện T3, thành phố Hải Phòng.

2. Bùi Đức D (tên gọi khác là NGH) sinh ngày 04 tháng 11 năm 1992, tại Hải Phòng; nơi cư trú: Thôn D1, xã D2, huyện T3, thành phố Hải Phòng.

- Bị hại không có kháng cáo (không triệu tập đến phiên tòa):

1. Anh Tạ Tiến F sinh năm 1989; nơi cư trú: Thôn T1, xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng.

2. Đinh Văn C và Bùi Đức D (đồng thời là bị cáo trong vụ án).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 08/01/2021, Đinh Văn C cùng với nhóm bạn, gồm: Tạ Tiến F, Lê Văn E, Lê Quang M (cùng trú tại thôn T1, xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng) và Vũ Doãn N (trú tại thôn N1, xã N2, huyện T3) cùng nhau ăn uống tại quán bán đồ ăn đêm của gia đình Hoàng Văn T ở thôn T1, xã T2, huyện T3. Do anh M có quan hệ họ hàng với T nên đã mời T cùng ăn uống. Đến khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi ăn xong, C thanh toán tiền cho T hết 100.000 đồng. Lúc này, T nhìn thấy có con chó từ ngoài cửa đi vào quán liền lấy bát trên bàn ném về phía con chó làm vỡ bát. Anh F ngồi cạnh phía bên phải T cho rằng T thiếu tôn trọng mọi người nên hai bên lời qua tiếng lại tranh cãi, thách thức nhau. Bất ngờ T đứng dậy với tay lấy con dao (hàng ngày dùng để thái lòng lợn) để trên quầy bán hàng ở phía sau rồi quay người lại vung dao chém một nhát vào đầu anh F. Thấy anh F bị chém, C ngồi cạnh phía bên trái T liền đứng dậy vơ chiếc bát trên bàn ăn đập vào mặt của T, thì bị T vung dao chém một nhát trúng vào vùng sống mũi. C lấy chiếc điếu cày bằng tre, dài 55cm vụt T một nhát trúng vào vùng mặt, T lấy tuýp sắt dài khoảng 02m chống trả lại và bỏ chạy. C đuổi theo nhặt gạch ném trúng vào vùng đầu, mặt của T. Sau đó, mọi người can ngăn và đưa F, T đến Bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp cấp cứu, điều trị thương tích; C đến Trung tâm Y tế huyện An Dương điều trị vết thương.

Kết quả khám nghiệm hiện trường:

- Tại khu vực lán của gia đình T, tại vị trí kê bộ bàn ghế nhựa, kích thước (64 x 41 x 50) cm, Cơ quan điều tra đã ghi nhận được một số dấu vết nghi máu bám dính trên mặt ghế, chân ghế và trên thùng nhựa (dạng vỏ thùng sơn) kê bên cạnh bàn; trên nền nhà có nhiều vết li ti chấm nhỏ nghi máu.

- Tại mặt đường bê tông liên thôn T1, xã T2, vị trí cách mép cửa ra vào lán 2,8m có nhiều vết nghi máu nhỏ, loang kéo dài 2,3m. Tại vị trí trước và giữa cửa ra vào phòng ngủ trên nền có dấu vết nghi máu khô.

Ngày 09/01/2021, bà Phan Thị TH, là vợ của T giao nộp 01 ống tre (dạng điếu cày) bị dập vỡ dài 55cm, đường kính 04cm, có dấu vết dạng máu khô; 01 viên gạch vỡ kích thước (05 x 10 x 05)cm; 03 mảnh vỡ bằng sứ (dạng mảnh bát). Ngày 19/3/2021, Hoàng Văn T giao nộp 01 con dao bằng kim loại dài 34 cm, cán bằng gỗ, T xác nhận là con dao dùng đề thái lòng lợn bán cho cả nhóm anh F, C đêm ngày 08/01/2021.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 35/2021/TgT ngày 08/02/2021 và bản Kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số 08/2022/TgT ngày 11/01/2022, Trung tâm pháp y thành phố Hải Phòng kết luận đối với thương tích của anh Tạ Tiến F như sau: Nạn nhân bị vết thương vùng trán, thái dương đỉnh trái gây vỡ lún, khuyết xương đỉnh trái, tụ máu ngoài màng cứng trán đỉnh trái. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 34%. Thương tích có đặc điểm do vật sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp với lực đủ lớn vuông góc với vị trí da nơi tổn thương gây vỡ xương đỉnh trái, tổn thương mạch máu gây nên.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 38/2021/TgT ngày 05/02/2021 và bản Kết luận giám định bổ sung về thương tích số 09/2022/TgT ngày 11/01/2022, Trung tâm pháp y thành phố Hải Phòng kết luận đối với thương tích của Đinh Văn C như sau: Nạn nhân bị vết thương rách da vùng trán cung mày phải không tổn thương xương hộp sọ, không tổn thương nội sọ; gẫy xương chính mũi phải. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 15%. Các thương tích trên có đặc điểm do vật sắc hoặc tương đối sắc tác động trực tiếp gây nên.

Tại bản Kết luận giám định pháp y về thương tích số 37/2021/TgT ngày 04/02/2021 và bản Kết luận giám định bổ sung về thương tích số 10/2022/TgT ngày 11/01/2022, Trung tâm pháp y Hải Phòng kết luận đối với thương tích của Hoàng Văn T như sau: Nạn nhân bị chấn thương vùng mặt trái gây vết thương rách da, vỡ thành xoang hàm trái, vỡ thành ngoài hốc mắt trái, gãy cung tiếp gò má trái. Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 32%. Các thương tích trên có đặc điểm do tác động tương hỗ trực tiếp với vật tày gây nên.

Tại bản Kết luận giám định số 96/2021/GĐSH ngày 06/8/2021 và số 122/2021/GĐSH ngày 23/10/2021, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an thành phố Hải Phòng kết luận: Có máu người trên ống tre đủ khả năng truy nguyên đồng nhất, phù hợp với kiểu gen của Hoàng Văn T.

Quá trình điều tra, Công khai nhận hành vi phạm tội như nội dung nêu trên. Đối với T, ban đầu không thừa nhận hành vi dùng dao chém anh F và C, không biết thương tích của anh F, Công do ai gây nên, nhưng sau đó T thay đổi lời khai và khai nhận có sử dụng con dao của gia đình (dạng dao bài, thường dùng để thái thức ăn hàng ngày) chém về phía C và anh F nhưng không rõ trúng vào ai và trúng vào vị trí nào.

Lời khai nhận tội của Đinh Văn C, Hoàng Văn T cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của bị hại Tạ Tiến F, lời khai của những người làm chứng là Vũ Doãn N, Lê Văn E, Lê Quang M; phù hợp với kết quả giám định pháp y về thương tích, xác định đặc điểm, dấu vết, cơ chế hình thành vết thương để lại trên thân thể của C, T, F; phù hợp với vật chứng đã thu giữ, gồm: 01 ống tre (dạng điếu cày); 01 con dao (dạng dao bài) và một số mảnh gạch vỡ, bát sứ vỡ để lại hiện trường.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2022/HS-ST ngày 08/12/2022, Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng quyết định:

Căn cứ điểm n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; khoản 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 13 (Mười ba) năm tù về tội “Giết người” và 30 (Ba mươi) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 15 (Mười lăm) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam 19/02/2022.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về tội danh, hình phạt đối với các bị cáo khác; trách nhiệm dân sự; xử lý vật chứng; án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14/12/2022, bị cáo Hoàng Văn T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T giữ nguyên kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 13 năm tù về tội “Giết người” theo điểm n khoản 1 Điều 123 và 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T xuất trình thêm tài liệu thể hiện bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền mà bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại là anh Tạ Tiến F là 104.800.000 đồng (văn bản bồi thường có công chứng) và bị hại Đinh Văn C số tiền 25.697.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 0006729 ngày 13/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng), ủng hộ Quỹ vì người nghèo năm 2020, 2021 (Phiếu thu của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng), có bố đẻ là ông Hoàng Văn T5 là người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (Quyết định số 18798/QĐ-LĐTBXH ngày 23/12/2013 của Sở Lao động, Thương binh và xã hội thành phố Hải Phòng) và có mẹ đẻ là bà Lê Thị L tham gia Thanh niên xung phong, được tặng Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong ; bị hại là anh F có văn bản trình bày là anh F đã hoàn toàn hồi phục và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất cho bị cáo T. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm và là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo còn xuất trình các Biên lai thu tiền của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng thể hiện bị cáo đã nộp toàn bộ số tiền án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 6.524.000 đồng. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo và giảm cho bị cáo một phần hình phạt đối với cả hai tội, cụ thể là đối với tội “Giết người” giảm 03 năm tù, đối với tội “Cố ý gây thương tích” giảm 06 tháng tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo: Thống nhất với ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm và giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo xuống mức thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hải Phòng và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng và Kiểm sát viên, Tòa án cấp sơ thẩm và Hội đồng xét xử sơ thẩm trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa sơ thẩm và phiên tòa phúc thẩm, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Hoàng Văn T thừa nhận hành vi phạm tội như bản án sơ thẩm đã mô tả và quy kết. Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp với lời khai của bị hại, những người làm chứng, vật chứng thu giữ, các kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập hợp pháp có trong hồ sơ vụ án nên có đủ cơ sở xác định: Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 08/01/2021, sau khi Hoàng Văn T, Đinh Văn C, anh Tạ Tiến F và một số người khác vừa ăn uống xong tại quán của gia đình Toàn ở thôn T1, xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng, Toàn nhìn thấy có con chó từ ngoài cửa đi vào quán liền lấy bát trên bàn ném về phía con chó làm vỡ bát. Anh F ngồi cạnh phía bên phải T cho rằng T thiếu tôn trọng mọi người nên hai bên lời qua tiếng lại tranh cãi, thách thức nhau. Bất ngờ T đứng dậy với tay lấy con dao (bằng kim loại dài 34 cm, cán bằng gỗ, hàng ngày dùng để thái lòng lợn) để trên quầy bán hàng ở phía sau rồi quay người lại vung dao chém một nhát vào đầu anh F. Thấy anh F bị chém, C ngồi cạnh phía bên trái T liền đứng dậy vơ chiếc bát trên bàn ăn đập vào mặt của T, thì bị T vung dao chém một nhát trúng vào vùng sống mũi. C lấy chiếc điếu cày bằng tre, dài 55cm vụt T một nhát trúng vào vùng mặt, T lấy tuýp sắt dài khoảng 02m chống trả lại và bỏ chạy, C đuổi theo nhặt gạch ném trúng vào vùng đầu, mặt của T. Sau đó, mọi người can ngăn và đưa anh F, T đến bệnh viện Hữu nghị Việt Tiệp thành phố Hải Phòng cấp cứu, điều trị thương tích; C đến Trung tâm Y tế huyện T3 điều trị vết thương. Theo kết quả giám định thương tích xác định anh F bị vết thương vùng trán, thái dương đỉnh trái gây vỡ lún, khuyết xương đỉnh trái, tụ máu ngoài màng cứng trán đỉnh trái, tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 34%; Công bị vết thương rách da vùng trán cung mày phải không tổn thương xương hộp sọ, không tổn thương nội sọ; gẫy xương chính mũi phải, tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 15%; T bị chấn thương vùng mặt trái gây vết thương rách da, vỡ thành xoang hàm trái, vỡ thành ngoài hốc mắt trái, gãy cung tiếp gò má trái, tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể là 32%.

[3] Như vậy, chỉ vì mâu thuẫn nhỏ nhặt sau khi đã cùng nhau ăn uống, giữa bị cáo T và anh F đã có lời lẽ qua lại, tranh cãi và thách đố nhau, bị cáo T đã dùng dao chém vào đầu anh F, gây vỡ lún, khuyết xương sọ vùng đỉnh trái, tổn hại 34% sức khỏe; và sau khi bị C dùng chiếc bát trên bàn ăn đập vào mặt của T thì T đã dùng dao chém một nhát trúng vào vùng sống mũi của C gây rách da vùng trán cung mày phải, vùng sống mũi không làm tổn thương xương hộp sọ, không tổn thương nội sọ, tổn hại 15% sức khỏe. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được việc dùng dao chém vào vùng đầu của anh F là vị trí trọng yếu trên thân thể con người có thể tước đi tính mạng của anh F. Do được đưa đi bệnh viện cấp cứu, điều trị kịp thời nên anh F không tử vong. Hành vi của bị cáo thể hiện tính côn đồ, hung hãn, sẵn sàng sử dụng hung khí nguy hiểm để gây tổn hại tính mạng, sức khỏe của người khác. Hành vi phạm tội của bị cáo đối với anh F thuộc trường hợp chưa đạt đã hoàn thành với lỗi cố ý, bị cáo đã thực hiện xong hành vi khách quan của tội phạm, hậu quả chết người chưa xảy ra là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo về tội “Giết người” (chưa đạt) theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 123, Điều 15 và tội “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

[4] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã bồi thường một phần cho bị hại F và gia đình bị cáo có công với Cách mạng nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nêu trên là đúng pháp luật. Tuy nhiên, đối với tội “Giết người”, bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt, tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh F là 34% và nguyên nhân việc bị cáo phạm tội có một phần do anh F và C nên việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 năm tù về tội “Giết người” và 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” là có phần nghiêm khắc.

[5] Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, thấy rằng: Như đã nêu trên, việc Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 năm tù về tội “Giết người” và 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” là có phần nghiêm khắc. Mặt khác, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo xuất trình thêm tài liệu thể hiện bị cáo đã tác động gia đình bồi thường toàn bộ số tiền mà bị cáo có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho bị hại Tạ Tiến F là 104.800.000 đồng (văn bản có công chứng) và bị hại Đinh Văn C số tiền 25.697.000 đồng (theo Biên lai thu tiền số 0006729 ngày 13/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng), ủng hộ Quỹ vì người nghèo năm 2020, 2021 (Phiếu thu của Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc xã T2, huyện T3, thành phố Hải Phòng), có bố đẻ là ông Hoàng Văn T5 là người tham gia kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học (Quyết định số 18798/QĐ-LĐTBXH ngày 23/12/2013 của Sở Lao động, Thương binh và xã hội thành phố Hải Phòng) và có mẹ đẻ là bà Lê Thị L tham gia Thanh niên xung phong, được tặng Kỷ niệm chương Thanh niên xung phong; bị hại Tạ Tiến F có văn bản trình bày là anh F đã hoàn toàn hồi phục và đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt đến mức thấp nhất cho bị cáo T (văn bản có công chứng). Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo mới phát sinh tại phiên tòa phúc thẩm và là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Do đó, có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo đối với cả hai tội và áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự đối với tội “Cố ý gây thương tích” để xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 2 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

[6] Do vậy, ý kiến đề nghị vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội và của Luật sư bào chữa cho bị cáo là chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và giảm cho bị cáo một phần hình phạt đối với cả hai tội, là có cơ sở nên được chấp nhận.

[7] Hội đồng xét xử phúc thẩm ghi nhận bị cáo đã thực hiện xong trách nhiệm bồi thường cho bị hại F là 104.800.000 đồng; bị hại C là 25.697.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006729 ngày 13/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng; nộp xong án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 6.524.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006388 ngày 09/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

[8] Do được chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[9] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm h khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Hoàng Văn T, sửa một phần Bản án hình sự sơ thẩm số 180/2022/HS-ST ngày 08 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

1. Áp điểm n khoản 1 Điều 123; điểm đ khoản 2 Điều 134; các điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 55; đối với tội “Giết người” áp dụng thêm Điều 15 và khoản 3 Điều 57; đối với tội “Cố ý gây thương tích” áp dụng thêm khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 10 năm (Mười) năm tù về tội “Giết người” và 01 (Một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo Hoàng Văn T phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 11 (Mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 19/02/2022.

2. Ghi nhận bị cáo Hoàng Văn T đã bồi thường cho bị hại Tạ Tiến F 104.800.000 đồng; đã bồi thường cho bị hại Đinh Văn C số tiền 25.697.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006729 ngày 13/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Xác nhận bị cáo Hoàng Văn T đã bồi thường xong cho bị hại Tạ Tiến F và bị hại Đinh Văn C.

Bị hại Đinh Văn C được quyền liên hệ với Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng để nhận số tiền mà bị cáo Hoàng Văn T đã bồi thường cho bị hại Đinh Văn C theo Biên lai thu tiền số 0006729 ngày 13/7/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng.

3. Ghi nhận bị cáo Hoàng Văn T đã nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng và án phí dân sự sơ thẩm là 6.524.000 đồng theo Biên lai thu tiền số 0006388 ngày 09/3/2023 của Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Xác nhận bị cáo Hoàng Văn T đã nộp xong án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Hoàng Văn T không phải nộp phí hình sự phúc thẩm.

5. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 531/2023/HS-PT

Số hiệu:531/2023/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành:14/07/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về