Bản án về tội cố ý gây thương tích số 52/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ S - TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 52/2023/HS-ST NGÀY 21/09/2023 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 9 năm 2023, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 49/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 9 năm 2023, đối với:

- Bị cáo: Ngô Minh G - sinh năm 1984; giới tính: Nam;

ĐKHKTT: Tổ dân phố Hồng Thắng, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Bố: Ngô Minh P (đã chết); Mẹ: Ngô Thị L; Bố mẹ sinh được 04 người con, G là con thứ 4; vợ: Nguyễn Thị L, (đã ly hôn); Có 02 con, lớn sinh năm 2011, nhỏ sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Ngày 29/9/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố S xử phạt 24 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Đã chấp hành xong.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 21/11/2022;

Bắt tạm giam ngày 07/7/2023, hiện nay đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố S. Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Anh Trần Trí L – sinh năm 1989.

Địa chỉ: Tổ dân phố Cường Thịnh, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Trần Trí M - sinh năm 1972 Địa chỉ: Tổ dân phố Hồng Thắng, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

- Người làm chứng:

1. Trương Như M - sinh năm 1985.

Địa chỉ: Tổ dân phố Thanh Thái, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

2. Nguyễn Thái L - sinh năm 1984.

Địa chỉ: Tổ dân phố Khanh Tiến, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

3. Vũ Như C - sinh năm 1977.

Địa chỉ: Tổ dân phố Công Vinh, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

4. Trần Thị L - sinh năm 1979.

5. Trần Trí C - sinh năm 1982.

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Cường Thịnh, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

6. Đinh Anh T - sinh năm 2000.

Địa chỉ: Tổ dân phố Hồng Thắng, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

7. Nguyễn Văn D - sinh năm 1987.

Địa chỉ: Tổ dân phố Lương Thiện, phường T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

8. Vũ Đức T - sinh năm 1988.

Địa chỉ: Tổ dân phố Phúc Đức, phường Quảng T, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

9. Nguyễn Sỹ Đ - sinh năm 1986.

10. Nguyễn Văn G - sinh năm 1985.

Cùng địa chỉ: Tổ dân phố Minh Cát, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. (Bị hai; liên quan; nhân chứng vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 20 giờ ngày 29/4/2022 tại khu vực bãi đất trống phía Bắc HubWay 15 thuộc tổ dân phố Cường Thịnh, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Ngô Minh G cùng với Nguyễn Văn T đang ngồi uống Bia thì có Trần Trí L đến ngồi uống Bia với G và T. Quá trình nói chuyện L chỉ tay vào mặt chửi G “...mẹ mày, mày vô ơn” G nói lại “mày để cho anh bán nước” hai bên lời qua tiếng lại với nhau; lúc này có thêm Nguyễn Văn G và Trương Như M đến vào uống Bia cùng thì giữa M và L lại xảy ra cải chửi nhau nên G có can ngăn nhưng không được, bực tức Ngô Minh G dùng tay phải tát 02 phát vào mặt Trần Trí L và được mọi người can ngăn đưa L về. Khoảng 20 phút sau Trần Trí L đi bộ quay lại và cải nhau với tổ an ninh, thấy vậy Ngô Minh G lại can ngăn nhưng bị L chửi bới nên G tát tiếp 01 phát vào mặt L, thấy vậy M và Giang cũng ra về. Ngô Minh G sang chiếu bên ngồi uống bia cùng với Vũ Đức T, Nguyễn Thái L và Nguyễn Văn D.

Bị đánh Trần Trí L vào bếp khách sạn “Minh Hạnh” gần đó lấy 02 con dao tương tự nhau (có cán gỗ dài 14cm, lưỡi dao dài 20cm, rộng từ 8- 9cm) mỗi tay cầm 01 con dao chạy ra, thấy vậy Ngô Minh G nhặt một phần viên gạch vỡ ném trúng vào vùng mặt, Trần Trí L ngã ngửa ra phía sau bị thương phần chẩm đầu.

Sau đó anh Trần Trí L được mọi người đưa đến Bệnh viện đa khoa (BVĐK) thành phố S điều trị.

- Biên bản xem xét dấu vết trên thân thể hồi 00 giờ 45 phút ngày 30/4/2022 tại Bệnh viện đa khoa thành phố S, anh Trần Trí L có các thương tích:

+ Tại vị trí vùng sau chẩm có vết thương đã được khâu vá kích thức dài 2cm vết thương có bờ mép sắc gọn;

+ Tại vị trí bên phải, gần giữa trán, cách chân tóc khoảng 1,5cm có vết thương đã được khâu vá kích thước 1,5cm vết thương có bờ mép sắc gọn;

+ Tại vị trí lông mày bên phải có vết thương đã được khâu vá kích thước dài 2cm vết thương có bờ mép sắc gọn;

+ Tại vị trí mi trên mắt phải có vết thương đã được khâu vá, kích thước dai 2,5cm vết thương có bờ mép nham nhở;

+ Tại vị trí khóe ngoài mi dưới mắt phải có vết thương đã được khâu vá kích thước dài 1cm, vết thương có bờ mép sắc gọn;

+ Tại quầng mắt trái có vết xước da kích thước dai 2cm có rỉ máu.

- Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 419/2022/TTPY ngày 10/6/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa. Kết luận: Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương do thương tích gây nên đối với Trần Trí L là 17%.

- Kết luận giám định pháp y cơ chế hình thành thương tích và xác định vật gây thương tích số: 749/2022/TTPY ngày 13/9/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa. Kết luận:

+ Vết thương tại vị trí vùng sau chẩm: Do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Làm rách da, cơ, mô mềm; đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng chẩm;

+ Vết thương tại vị trí bên phải, gần giữa trán: Do tác động của ngoại lực;

được tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Làm rách da, cơ, mô mềm; đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng mặt ngang mức trán lệch phải;

+ Vết thương tại vị trí lông mày bên phải: Do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Làm rách da, cơ, mô mềm; đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng mặt ngang mức đầu ngoài cung lông mày phải;

+ Vết thương tại vị trí mi trên mắt phải: Do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật tày có cạnh. Làm rách da, cơ, mô mềm và chấn thương đụng dập nhãn cầu mắt phải; đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng mặt ngang mức mi trên mắt phải và thị lực mắt phải giảm bằng 6/10, quặm mi trên, đáy mắt tăng sắc tố vùng hoàng điểm;

+ Vết thương tại vị trí khóe ngoài mi dưới mắt phải: Do tác động của ngoại lực; được tạo nên bởi vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn. Làm rách da, cơ, mô mềm; đã được điều trị; hiện tại còn di chứng sẹo vết thương phần mềm vùng mặt ngang mức khóe ngoài mi dưới mắt phải;

+ Tại quầng mắt bên trái có vết xước da, rỉ máu. Do tác động của ngoại lực;

được tạo nên bởi vật tày có cạnh, hoặc vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn.

Làm rách, xước lớp thượng bì của da; đã được điều trị; hiện tại không còn sẹo, không để lại biến đổi rối loạn sắc tố da, không có di chứng tổn thương;

+ Nếu đối tượng sử dụng viên gạch ném trúng vào vùng mắt phải của Trần Trí L thì có thể gây nên được vết thương tại vị trí mi trên mắt phải;

+ Nếu Trần Trí L bị ngã ngửa về sau, phần đầu phía sau va chạm với vật cứng dưới nền đất thì không thể gây nên thương tích tại vùng sau chẩm (Ngoại trừ trường hợp ngã và phần đầu phía sau va chạm vào phần sắc của vật có cạnh sắc, hoặc vật có cạnh sắc nhọn);

+ Nếu đối tượng dùng nắm đấm, đấm vào mặt bên trái của Trần Trí L thì không thể gây nên vết thương xước da, rỉ máu tại quầng mắt bên trái;

+ Nếu đối tượng dùng nắm đấm (có đeo nhẫn, có đeo đồ trang sức...), đấm vào mặt bên trái của Trần Trí L thì có thể gây nên vết thương xước da, rỉ máu tại quầng mắt bên trái;

+ Tại thời điểm giám định pháp y về cơ chế hình thành thương tích: Không đủ chứng cứ khoa học và các giữ liệu khách quan để xác định chính xác tư thế, chiều hướng tác động và lực tác động của vật gây thương tích.

- Kết luận giám định pháp y bổ sung về thương tích số: 751/2022/TTPY ngày 13/9/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa. Kết luận: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do nhóm vết thương gây nên đối với Trần Trí L gồm: Tại vị trí vùng sau chẩm; tại vị trí bên phải, gần giữa trán; Tại vị phí lông mày bên phải; tại vị trí mí trên mắt phải; tại vị trí khóe ngoài mi dưới mắt phải gây ra cho Trần Trí L là 17%.

+ Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do nhóm vết thương gây nên đối với Trần Trí L gồm: Tại vị trí bên phải, gần giữa trán; tại vị trí lông mày bên phải; tại vị trí mi trên mắt phải; tại vị trí khóe ngoài mi dưới mắt phải gây ra cho Trần Trí L là 16%.

Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do nhóm vết thương gây nên đối với Trần Trí L gồm: Tại vị trí lông mày bên phải; tại vị trí mi trên mắt phải; tại vị trí khóe ngoài mi dưới mắt phải gây ra cho Trần Trí L là 13%).

Vật chứng của vụ án: 02 con dao tương tự nhau (Cán gỗ dài 14cm, lưỡi dao dài 20cm, rộng từ 8- 9cm) hiện đang được bảo quản theo hồ sơ vụ án.

Về bồi thường dân sự: Trong quá trình điều tra bị hại không yêu cầu bồi thường và có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị can.

Cáo trạng số 56/CTr - VKS.HS ngày 24 tháng 8 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S, tỉnh Thanh Hóa, truy tố Ngô Minh G, về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm đ khoản 2 điều 134 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Ngô Minh G và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; 38 Bộ luật hình sự, về tội “Cố ý gây thương tích”; xử phạt mức án từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/7/2023.

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không có yêu cầu bồi thường nên miến xét.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tuyên trả lại cho anh Trần Trí M, là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án 02 con dao tương tự nhau (Cán gỗ dài 14cm, lưỡi dao dài 20cm, rộng từ 8- 9cm).

Về án phí: Buộc Ngô Minh G, phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Trong phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận gì với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Quá trình điều tra bị hại anh Trần Trí L có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án, trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ ra ăn năn hối cải, nhận thấy việc làm của mình là sai trái. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ mức hình phạt cho bị cáo để các bị cáo sớm có điều kiện trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng theo quy định của pháp luật. Do đó, những người tham gia tố tụng trong vụ án không ai khiếu nại gì về hành vi của Cơ quan, Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.

[2]. Về nội dung vụ án: Khoảng 20 giờ ngày 29/4/2022 tại khu vực bãi đất trống phía Bắc HubWay 15 thuộc tổ dân phố Cường Thịnh, phường Q, thành phố S, tỉnh Thanh Hóa. Ngô Minh G đã có hành vi dùng hung khí nguy hiểm là gạch vỡ gây nên thương tích cho anh Trần Trí L là 17%. Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của bị cáo, bị hại và những người làm chứng tại cơ quan điều tra. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố S truy tố Ngô Minh G, về tội “Cố ý gây thương tích” theo qui định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự, là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3]. Xét tính chất vụ án: Do có sự cãi vả trong lúc uống bia rượu, bị hại Trần Trí L, có chửi bới xúc phạm bị cáo nên bị cáo đã có hành vi dùng tay tát vào mặt và dùng viên gạch vỡ ném trúng vào vùng mặt của bị hại anh Trần Trí L, gây nên tổn thương cơ thể cho anh L là 17%. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của người khác, gây mất trật tự trị an nơi công cộng nên cần phải được xử lý nghiêm minh tương xứng với tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra để bị cáo thấy được sự nghiêm minh của pháp luật.

[4]. Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì thấy rằng: Nhân thân năm 2017 bị Tòa án nhân dân thành phố S xử phạt 24 tháng tù về tội gây rối trật tự công cộng, đã chấp hành xong nhưng bị cáo không lấy đó là bài học kinh nghiệm để rèn luyện bản thân, chứng tỏ ý thức chấp hành pháp luật của bị cáo là rất kém. Tuy nhiên, quá trình phạm tội không có sự chuẩn bị công cụ, phương tiện từ trước, giữa bị cáo và bị hại không có mâu thuẫn gì, do thấy bị hại cãi nhau với người khác nên bị cáo can ngăn, sau đó bị hại hiểu nhầm bị cáo, dẫn đến bị cáo bức xúc và đã có hành gây thương tích cho anh L. Quá trình điều tra thành khẩn khai báo; bị hại có đơn xin miễm truy cứu trách nhiệm hình sự cho bị cáo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm cho bị cáo một phần hình phạt để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà yên tâm cải tạo, nhưng việc cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, mới đủ tác dụng giáo dục bị cáo sớm trở thành người công dân tốt, sống có ích cho xã hội.

[5]. Về xử lý vật chứng và án phí: Cần được xem xét xử lý theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm s khoản 1 khoản 2 Điều 51; 38; 47 Bộ luật hình sự; Điều 61; 62; 65; 331; 333; 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/UBTVQH14, quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố: Ngô Minh G, phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

Xử phạt: Ngô Minh G, 30 (Ba mươi) tháng tù, hạn tù tính từ ngày bị bắt tạm giam 07/7/2023.

Về án phí: Bị cáo Ngô Minh G, phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Về xử lý vật chứng: Trả lại cho anh Trần Trí M, là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án 02 con dao theo mô tả tại biên bản giao nhận vật chứng số 62/BBVC-CCTHA ngày 24/8/2023, của Chi cục Thi hành án thành phố S, tỉnh Thanh Hóa.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo, có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc kể từ ngày Bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6; Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

80
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 52/2023/HS-ST

Số hiệu:52/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sầm Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về