TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG THÁP
BẢN ÁN 51/2024/HS-PT NGÀY 13/03/2024 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 13 tháng 3 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp mở phiên tòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phuc thẩm thụ lý số: 253/2023/TLPT-HS ngày 10 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo Nguyễn Thanh S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2023/HS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Thanh S, sinh năm 1981; Nơi sinh: Đồng Tháp. Nơi thường trú và nơi ở hiện nay: Tổ E, ấp D, xã B, huyện C, tỉnh Đồng Tháp; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn M, sinh năm 1951 và bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1957; Vợ tên: Cao Thảo N, sinh năm 1990; Có 02 con, con lớn sinh năm 2011, con nhỏ sinh năm: 2014; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ, tạm giam: Không; Bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú, hiện đang tại ngoại (Có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Võ Thị Băng G – Văn phòng L1 thuộc đoàn Luật sư tỉnh Đ (Có mặt).
Địa chỉ: Số B, khóm M, thị trấn M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.
Ngoài ra, trong vụ án còn có bị hại; Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không kháng cáo; Viện kiểm sát không kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 14 giờ 00 phút ngày 14/9/2022, Nguyễn Thanh S đến nhà bạn tên Phan Thị Đ tại số B đường H, Tổ A, khóm T, phường H, thành phố C, Đồng Tháp để uống rượu, bia. Khi đi, S có rủ thêm bạn tên D và bạn của D tên T (cả hai không rõ nhân thân và địa chỉ cụ thể). Tất cả cùng uống rượu, bia cho đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày thì tiếp tục đến nhà con rể của Đ tên L gần đó uống rượu, bia cùng với anh Võ Ngọc M1 và một số người khác đến khoảng 21 giờ cùng ngày tất cả nghỉ.
Khi S cùng T, D ra về cách chỗ uống rượu khoảng 100m thì Đ gọi điện cho S nói: “Có mích lòng gì M1 mà M1 đòi kêu giang hồ đánh mấy ông”, S nghe vậy nên cùng T và D quay lại gặp M1 không nói gì mà S, D và T xông vào dùng tay chân và nhặt đá có tại hiện trường đánh nhiều cái vào vùng mặt bên trái và vùng trán của M1. Khi thấy sự việc đánh nhau, anh Phan Văn T1 là người uống rượu, bia chung can ngăn nên S cùng hai người bạn của S bỏ đi. Anh M1 được người thân đưa đến Bệnh viện T2 khám và điều trị ngoại trú. Đến ngày 15/9/2022, gia đình đưa M1 đến bệnh viện Đ1 nhập viện điều trị đến ngày 23/9/2022 thì xuất viện. Ngày 03/10/2022, anh M1 có làm đơn yêu cầu xử lý hình sự hành vi gây thương tích của S, D và T.
Vật chứng thu thu giữ tại hiện trường gồm 01 (một) viên đá màu xám nặng 1,3kg, 01 (một) viên đá bê tông nặng 500gram, 01 (một) đôi dép màu nâu đã qua sử dụng, 01 (một) áo thun màu trắng, 01 (một) điện thoại di động hiệu S2 màu đen là tài sản trên người của bị hại M1.
Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiến hành cho Nguyễn Thanh S nhận dạng và xác định viên đá bê tông nặng 500gram đã thu giữ là hung khí S đã sử dụng đánh vào vùng đầu, mặt của M1 và bỏ lại hiện trường.
Đối với đôi dép màu nâu đã qua sử dụng, 01 (một) áo thun màu trắng, 01 (một) điện thoại di động hiệu S2 màu đen là tài sản cá nhân của Võ Ngọc M1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố C tiến hành trả cho anh M1 xong.
- Kết luận giám định pháp y về thương tích số: 325/TgT, ngày 18/10/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Đ xác định thương tích của Võ Ngọc M1 do thương tích gây nên cụ thể như sau:
+ 04 (bốn) sẹo vết thương phần mềm vùng đỉnh trái, chẩm trái, thái dương trái, kích thước nhỏ tỷ lệ 01%/sẹo.
+ 01 (một) sẹo vết thương phần mềm vùng trán trái, kích thước nhỏ tỷ lệ 03%.
+ 02 (hai) vết biến đổi sắc tố da vùng sau đuôi mắt trái, mi dưới mắt trái, tỷ lệ 01%/sẹo.
+ Gãy bờ dưới ổ mắt trái tỷ lệ 06%.
+ Gãy xoang hàm trên trái tỷ lệ 08%.
+ Gãy xương hàm trên trái tỷ lệ 09%.
+ Gãy cung tiếp trái đã phẫu thuật kết hợp xương tỷ lệ 09%.
Tổng tỷ lệ thương tích tại thời điểm giám định là 35% (Ba mươi lăm phần trăm), các vết thương do vật tày gây nên.
- Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Thanh S đã thỏa thuận và bồi thường cho bị hại Võ Văn M2 số tiền 66.000.000 đồng, anh M2 đã nhận đủ tiền và không yêu cầu S bồi thường gì thêm.
Trong quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Thanh S thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung đã nêu trên, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người bị hại, người liên quan, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác thu thập có trong hồ sơ vụ án.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2023/HS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp đã xét xử:
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
- Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
Điều 38 của Bộ luật hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 05 (Năm) năm 06 (S1) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và nêu quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 11 tháng 7 năm 2023, bị cáo Nguyễn Thanh S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Bị cáo Nguyễn Thanh S thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Bị cáo thừa nhận Bản án số 57/2023/HS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp kết án bị cáo phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, không oan, sai. Tuy nhiên, bị cáo cho rằng mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm tuyên là quá nặng so với hành vi của bị cáo và bị cáo giữ nguyên kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Tháp phát biểu quan điểm cho rằng hành vi của bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo cung cấp đơn xác nhận của chính quyền địa phương bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Tuy nhiên, mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
Luật sư Võ Thị Băng G bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thanh S phát biểu quan điểm: Hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, bị cáo phải nuôi con nhỏ và cha mẹ già. Bản tính bị cáo không hung hăng nhưng do có rượu nên xảy ra sự việc đánh nhau. Bị cáo có hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo vi phạm.
Trong phần tranh luận, bị cáo Nguyễn Thanh S không tranh luận. Tại lời nói sau cùng, bị cáo Nguyễn Thanh S xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:
[1] Khoảng 21 giờ ngày 24/9/2022, sau khi S uống rượu, bia tại nhà bạn tên Phan Thị Đ thuộc tổ A, khóm T, phường H, thành phố C, tỉnh Đồng Tháp chuẩn bị ra về thì S nghe Đ nói anh Võ Ngọc M1 là người vừa uống rượu, bia chung với S và Đ đang kêu giang hồ đánh S nhưng S không tìm hiểu sự việc mà với bản chất côn đồ nên S đã dùng tay, chân và nhặt đá bê tông nặng 500gram có tại hiện trường là hung khí nguy hiểm cùng hai đồng phạm khác chưa rõ nhân thân đánh nhiều cái trúng vùng đầu và mặt anh M1 gây ra thương tích với tỷ lệ là 35%. Hành vi của bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự bằng Bản án hình sự 57/2023/HS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét thấy khi quyết định hình phạt, Tòa án cấp sơ thẩm có xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo đã thỏa thuận bồi thường khắc phục hậu quả xong cho người bị hại, bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo; Bị cáo có ông nội Nguyễn Văn C và bà nội Phan Thị N1 được tặng bảng gia đình vẻ vang, ông nội là liệt sĩ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự là có cân nhắc tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, từ đó phán quyết mức án 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù đối với bị cáo là phù hợp.
[3] Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử thấy rằng, các tình tiết giảm nhẹ của bị cáo đã được Tòa án cấp sơ thẩm xem xét. Trong quá trình chuẩn bị xét xử phúc thẩm, bị cáo cung cấp xác nhận của chính quyền địa phương bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính trong gia đình. Tuy nhiên mức án mà Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo là phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra. Từ những nhận định trên, Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên phần Quyết định của bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo.
[4] Xét đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.
[5] Xét thấy phát biểu của Luật sư bào chữa cho bị cáo là chưa có căn cứ chấp nhận.
[6] Do kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định pháp luật.
[7] Các phần khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh S.
Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 57/2023/HS-ST ngày 11 tháng 7 năm 2023 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp về phần hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thanh S.
2. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thanh S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 05 (Năm) năm 06 (S1) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm b khoản 2 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-02-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Bị cáo Nguyễn Thanh S phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các phần khác của quyết định bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 51/2024/HS-PT
Số hiệu: | 51/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Tháp |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/03/2024 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về