TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 481/2022/HS-PT NGÀY 22/11/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Ngày 22/11/2022, tại Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 365/2022/TLPT-HS, ngày 03/10/2022 đối với bị cáo Trần Ngọc H do có kháng cáo của các bị hại Trương Minh T, Trương Minh T1 đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 146/2022/HS-ST, ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo:
Trần Ngọc H, sinh năm 1991; Thường trú: đường Đ, khu phố A, thị trấn V, huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang; Tạm trú: đường T, Tổ B, Khu phố 2, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: làm thuê; trình độ học vấn: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn S và bà Mai Thị Ngọc B; hoàn cảnh gia đình: Có vợ là Phạm Thị Thúy K và 02 con (lớn sinh năm 2014, nhỏ sinh năm 2020); tiền án, tiền sự: không;
Bị cáo bị bắt giam từ ngày 17/7/2020 (Có mặt).
Các bị hại:
1. Ông Trương Minh T, sinh năm 1982 Thường trú: Tổ D khu phố E, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: phường T Khu phố B, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).
2. Ông Trương Minh T1, sinh năm 1983 Thường trú: Tổ N, Khu phố M, phường T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ: Tổ T, Khu phố 2, T, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 02/5/2020, Trương Minh T có xảy ra mâu thuẫn với Trần Ngọc H nên T đến nhà Trần Ngọc T (anh ruột của H) tại phường T, Quận 12 tìm Hnhưng không gặp, T dùng gậy bóng chày đập phá hàng rào nhà T rồi đi về. Đến khoảng 09 giờ 00 phút ngày 03/5/2020, H đến nhà T tại địa chỉ Tổ 6, Khu phố 2, phường T, Quận 12 tìm T nhưng không gặp nên H1 bỏ về. Khoảng 17 giờ 30 phút cùng ngày, T nói chuyện với Nguyễn Huy T2 gọi điện thoại cho H1 để T nói chuyện thì xảy ra cãi nhau với H1 qua điện thoại.
Đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 03/5/2020, H1 gọi điện thoại cho Nguyễn Ngọc B, Nguyễn Công D, Đặng Vũ Thanh D, Nguyễn Trung Q và C Hoàng (chưa xác định) hẹn đến quán sinh tố của H1 tại địa chỉ đường T, Khu phố 3, phường T, Quận 12 để cùng H1 đi gặp T giải quyết mâu thuẫn. Lúc này, H1 nhìn thấy có thêm khoảng 10 đến 20 nam thanh niên (không xác định) đi cùng nhóm bạn do H1 rủ đến. Trước khi đi, H1 chuẩn bị hung khí gồm: 01 súng tự chế (dạng súng săn) cùng 02 viên đạn, dao tự chế và cây chĩa, H1 nói với cả nhóm là hung khí bỏ sẵn trong tủ của xe bán sinh tố, đến lấy rồi đi, bản thân H1 lấy 01 khẩu súng tự chế dài 82 cm và 02 viên đạn, H1 nhìn thấy C lấy 01 dao tự chế, D lấy 01 cây chĩa, Q lấy 01 cây chĩa, còn lại ai lấy loại hung khí gì thì H1 không nhớ. Sau đó, H1 gọi cả nhóm cùng đi và được 01 nam thanh niên (chưa xác định) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Raider (không rõ biển số) chở đi trước, sau đó H1 dẫn cả nhóm đến sau chung cư Đ, phường T, Quận 12 nhìn thấy Trương Minh T, Trương Minh T1 ngồi trước nhà, Nguyễn Thọ Minh C đứng cách T khoảng 12m và Đào Ngọc H đứng cách vị trí của T khoảng 05m, T cầm 01 con dao tự chế, T1 cầm một khẩu súng tự chế kéo C vào phía trong nhà và T cùng T1 kéo cánh cửa xếp lại khóa phía trong, H2 bỏ chạy vào trong bếp, H1 nhìn thấy T1 cầm súng tự chế bắn một phát về phía H1 nhưng không trúng nên H1 cùng đồng bọn tiến đến nhà T, H1 dùng 02 tay cầm súng tự chế hướng vào nhà T bắn 02 phát gây thương tích cho T, T1 và C. Đồng bọn H1 dùng dao tự chế và cây chĩa chém vào cánh cửa xếp để phá cửa nhưng do T1 và T đứng phía trong chốt khóa và kéo hai cánh cửa lại nên không phá được nên nhanh chóng bỏ đi. Riêng Nguyễn Ngọc B khi đi cùng nhóm H1 đến sau chung cư Đ do nhìn thấy sự việc đánh nhau và tiếng súng nổ nên hoảng sợ bỏ về nhà tại địa chỉ ấp 5, xã X, huyện Hóc Môn. Sau khi gây án, Trần Ngọc H cùng đồng bọn đem hung khí vứt tại vỉa hè đối diện nhà đường T, Tổ 21, khu phố 6, phường T, Quận 12 rồi bỏ trốn. Sau đó, Trương Minh T1 được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện 175, Trương Minh T đến Công an phường T, Quận 12 trình báo sự việc. Đồng thời, T, T1 và C có đơn yêu cầu giám định tỷ lệ thương tích và yêu cầu xử lý hình sự đối với các đối tượng gây án.
Sau khi sự việc xảy ra, Trần Ngọc H đến nhà Nguyễn Ngọc B tại địa chỉ ấp 5, xã X, huyện Hóc Môn và nhờ B chở đi, B điều khiển xe nhãn hiệu Honda Lead màu trắng (không rõ biển số) mượn của H2 (chưa xác định) chở H1 đi, trên đường đi H1 không kể cho B biết sự việc đánh nhau thế nào và yêu cầu B chở đến trước địa chỉ đường Quốc lộ 1A, Khu phố 2, phường Đ, Quận 12 rồi B ra về.
Cơ quan CSĐT Công an Quận 12 tiến hành khám nghiệm hiện trường ghi nhận nhiều vết đạn bắn trên cánh cửa xếp, các vết chém ở cửa xếp và thu giữ các vật chứng sau:
- 03 vỏ đạn có kích thước chiều dài 21mm, đường kính 09mm, phần đầu đạn có ghi chữ “OZK 9mmPA”.
- 03 viên đạn có kích thước chiều dài 21mm, đường kính 09mm, phần đầu đạn có ghi chữ “OZK 9mmPA”, bên trong có các viên bi nhỏ làm bằng kim loại.
- 01 đôi dép có dính chất dịch màu đỏ.
- 04 mảnh kim loại gồm 02 mảnh kim loại hình tròn, kích thước 3,5x3mm, 02 mảnh kim loại không rõ hình (nghi đầu đạn).
Hiện trường xảy ra vụ án không có camera trực tiếp ghi lại nội dung vụ án, không có người chứng kiến.
Vật chứng thu giữ tại vỉa hè đối diện nhà đường T, Tổ 21, Khu phố B, phường Trung Mỹ Tây, Quận 12, bao gồm:
- 01 khẩu súng tự chế dài 82cm, có báng súng làm bằng gỗ rộng 10cm, dài 68cm, nòng súng làm bằng kim loại dài 44cm, đường kính 12cm (là hung khí Trần Ngọc H sử dụng để bắn gây thương tích).
- 03 ống kim loại dài 11m, đường kính 12cm.
- 01 dao tự chế dài 1,4m, lưỡi dao dài 50cm, bản rộng 07cm.
- 01 dao tự chế dài 1,85m, lưỡi dao dài 50cm, bản rộng 07cm.
- 01 dao tự chế dài 1,250, lưỡi dao dài 50cm, bản rộng 07cm.
- 03 cây chĩa dài 1,370, đường kính 12cm, có ba đầu nhọn.
Tại Bản kết luận giám định số 900/KLGĐ-TT ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:
“ Khẩu súng dài gửi giám định là súng tự chế, không có số súng, nòng súng không có đường khương tuyến. Các bộ phận của súng hoạt động bình thường, không xác định được nơi sản xuất. Căn cứ quy định tại khoản 6, Điều 3 của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ do Quốc hội ban hành ngày 20/01/2018 (có hiệu lực từ ngày 01/7/2018) thì khẩu súng dài gửi giám định có tính năng, tác dụng tương tự như súng săn.
- 03 (ba) vỏ đạn có ký hiệu “OZK-9mm P.A.” gửi giám định là vỏ đạn của loại đạn nổ uy hiếp cỡ 9mmx22mm, đã qua sử dụng, thường dùng cho các loại súng ngắn thuộc nhóm công cụ hỗ trợ có cỡ nòng 9mm.
- 03 (ba) viên đạn có ký hiệu “OZK-9mm P.A.” gửi giám định là loại đạn đã được chế tạo lại, sử dụng vỏ đạn của loại đạn nổ uy hiếp cỡ 9mmx22mm rồi nhét thuốc nổ và đạn bi kim loại vào làm đầu đạn, có thể sử dụng cho các loại súng ngắn thuộc nhóm công cụ hỗ trợ có cỡ nòng 9mm và súng tự chế có cỡ nòng và buồng đạn phù hợp với kích cỡ của loại đạn này.
- Không đủ cơ sở kết luận 04 (bốn) mảnh kim loại không rõ hình dạng có phải là đầu đạn hay không, có phải của khẩu súng dài gửi giám định bắn ra hay không.
Không tiến hành giám định so sánh do Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh (C09B), Bộ Công an và Phòng kỹ thuật hình sự, Công an Thành phố Hồ Chí Minh không lưu giữ vỏ đạn của loại đạn 9mmx22mm, vỏ đạn của loại đạn 12GA.
Tại Bản kết luạn giám định số 1628/KLGĐ-TT ngày 17/9/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “03 (ba) vỏ đạn và 03 (ba) viên đạn bằng kim loại có ký hiệu “OZK-9mm P.A gửi giám định không phải do khẩu súng dài gửi giám định bắn ra”.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 384/TgT.20 ngày 18/5/2020 của Trung tâm pháp y TP. Hồ Chí Minh giám định đối với Trương Minh T1 như sau:
“Dấu hiệu chính qua giám định.
Đa vết thương phần mềm tại vùng gối, cẳng chân phải, hiện còn:
+ Hình ảnh nhiều di vật cản quang hình tròn nhỏ tại vùng gối cẳng chân (ảnh 1) +Sáu mươi mốt vết dạng hình tròn nhỏ đóng mày rải rác tại gối, cẳng chân phải (ảnh 2, 3, 4).
2. Theo Thông tư 22/2010/TT-BYT ngày 28/8/2012 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần:
Tỉ lệ tổn thương có thể do thương tích gây ra hiện tại là 33% (ba mươi ba phần trăm).
3. Kết luận khác:
- Các thương tích do bị bắn bằng đạn ghém (đạn hoa cải) - Không có cơ sở xác định tỉ lệ từng vết thương Kết luận giám định pháp y về thương tích số 419/T2T20 ngày 28/5/2020 của Trung tâm pháp y Thành phố Hồ Chí Minh giám định đối với Nguyễn Thọ Minh C như sau:
“.1. Dấu hiệu chính qua giám định.
Vết thương thành bụng, Xquang ghi nhận hình ảnh cản quang ngang mức I 3 bên phải, không ghi nhận hình ảnh liềm hơi dưới hoành hay bất thường khác, đã được điều trị nội khoa bảo tồn, hiện còn:
+ Một vết thương còn mày tại vùng bụng bên phải đường trắng phía trên rốn kích thước 15x0.8cm (ảnh 1)
+ Hình ảnh nốt cản quang dạng kim loại trong da bên phải đường trắng dưới rốn kích thước dài 24mm (ảnh 2) Có tỉ lệ 02% (hai phần trăm).
Thương tích do hỏa khí gây ra.
Theo biên bản xem xét dấu vết trên thân thể ngày 06/5/2020: Chấn thương phần mềm cánh tay phải đã được điều trị, hiện không còn thương tích bên ngoài.
Không đủ cơ sở xác định hung khí.
2. Theo Thông tư 22/2012/TT-BYT ngày 28/8/2015 của Bộ Y tế quy định tỉ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần.
Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là: 02% (hai phần trăm).
3. Kết luận khác.
Không đủ cơ sở xác định chiều hướng và lực tác động đối với các thương tích trên.
Kết luận giám định pháp y về thương tích số 720/TgT20 ngày 12/8/2020 của Trung tâm pháp y Thành phố Hồ Chí Minh giám định đối với Trương Minh T như sau:
“1. Dấu hiệu chính qua giám định.
Đa vết thương đã được điều trị, hiện còn:
+ Một sẹo vùng trán đỉnh phải kích thước 0,3 x 0,2 kèm một dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp cắt lớp vi tính.
Có tỉ lệ 2%.
+ Một sẹo cạnh trán rốn kích thước 0,5 x 0,3cm kèm một dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp cắt lớp vi tính, kèm 02 dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp cắt lớp vi tính.
Có tỉ lệ 3%.
+ Một sẹo vùng hông trái kích thước 1,5 x 1cm kèm một dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp cắt lớp vi tính.
Có tỉ lệ 2%.
+ Một sẹo mặt trước 1/3 dưới cánh gay trái kích thước 0.6 x 0.5cm kèm 01 dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp Xquang.
Có tỉ lệ 2%.
+ Một sẹo mặt sau 1/3 trên cẳng tay trái kích thước 1.5 x 0,6cm kèm một dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp Xquang.
Có tỉ lệ 2%.
+ Một sẹo mặt trong 1/3 giữa cẳng tay trái kích thước 1 x 0.6cm kèm một dị vật cản quang dưới sẹo trên phim chụp Xquang.
Có tỉ lệ 2%.
Các thương tích do hỏa khí đạn ghém gây ra.
+ Một sẹo tại cạnh trong bàn tay trái kích thước 1 x 0.6cm. Có tỉ lệ 2%.
Thương tích do bỏng nhiệt gây ra.
Cộng lùi các tỉ lệ trên theo thông tư 22/2012/TT-BYT ngày 28/8/2014 của Bộ y tế ra tỉ lệ 14,93%, làm tròn sẽ là 15%.
2. Theo Thông tư 22/2012/TT-BYT ngày 28/8/2014 của Bộ Y tế quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm thần. Tỉ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra hiện tại là 15% (mười lăm phần trăm).
Đối với hành vi cầm súng tự chế bắn lại Trần Ngọc H của Trương Minh T1 và hành vi dùng dao tự chế chém Trần Ngọc H của Trương Minh T qua lời khai của H, T và T1 không thừa nhận, ngoài ra không còn chứng cứ nào khác nên không có căn cứ để xử lý.
Đối với Nguyễn Ngọc B do Trần Ngọc H rủ đi giải quyết công việc, không biết đi đánh nhau, sau khi B đến trước nơi xảy ra vụ án do thấy đánh nhau nên B bỏ đi về không tham gia việc đánh nhau cùng với H, do đó không đủ căn cứ để xử lý.
Đối với Nguyễn Công D do Trần Ngọc H rủ đến quán sinh tố của H, không biết rủ đi đánh nhau, sau đó D cùng đi theo Trần Ngọc H, khi D đến nơi xảy ra vụ án nghe thấy tiếng súng nổ nên bỏ chạy, do đó không đủ căn cứ để xử lý.
Đối với Đặng Vũ Thanh D, Nguyễn Trung Q và các đối tượng C, H (chưa rõ lai lịch) Cơ quan điều tra đang tiếp tục truy tìm, khi nào bắt được sẽ đề nghị xử lý sau.
Đối với hành vi của bị cáo dùng súng tự chế bắn làm thủng nhiều vết trên 02 cánh cửa xếp làm bằng kim loại của Trương Minh T1. Theo Kết luận định giá tài sản số 268/KL-HĐĐGTS ngày 31/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng Quận 12, kết luận tài sản là 02 cánh cửa kim loại bị thiệt hại tổng cộng số tiền là 1.432.500 đồng nên Công an Quận 12 đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Trần Ngọc H về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” với mức phạt là 3.500.000 đồng.
Về trách nhiệm dân sự, bị hại Trương Minh T1 yêu cầu bị cáo bồi thường:
tiền thuốc điều trị 28.784.000 đồng; tiền xe 3.000.000 đồng; tiền ăn uống 4.500.000 đồng; tiền công mướn người nuôi bệnh 7.000.000 đồng; tiền thiệt hại cửa sắt 21.000.000 đồng; tiền mất thu nhập 3.000.000 đồng x 5 tháng là 450.000.0000 đồng; tiền tổn thất tinh thần là 1.000.000.000 đồng.
Bị hại Trương Minh T yêu cầu bị cáo bồi thường tiền thuốc điều trị 8.975.000 đồng; tiền xe 2.000.000 đồng; tiền ăn uống 2.500.000 đồng; tiền mất thu nhập 30.000.000 đồng x 9 tháng là 270.000.000 đồng; tiền tổn thất tinh thần 1.000.000.000 đồng.
Đồng thời, bị hại T1 và T có yêu cầu xử lý bị cáo thêm tội Hủy hoại tài sản, sử dụng vũ khí trái phép, và gây rối trật tự công cộng; và xử lý các đối tượng đi cùng bị cáo.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 146/2022/HSST ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Xử phạt bị cáo Trần Ngọc H 07 (bảy) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 17/7/2020.
Áp dụng Điều 590 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015:
Buộc bị cáo H bồi thường cho bị hại: ông Trương Minh T1 số tiền 97.916.500 đồng; ông Trương Minh T số tiền 42.415.000 đồng.
Ngoài ra, bản án hình sự sơ thẩm còn tuyên về phần xử lý vật chứng, phần trách nhiệm dân sự đối với bị hại Nguyễn Thọ Minh C, án phí, quyền và thời hạn kháng cáo của các bị cáo.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 22/8/2022, bị hại Trương Minh T1 kháng cáo đề nghị truy tố thêm các đồng phạm cùng với bị cáo Trần Ngọc H tấn công bị hại, truy tố bị cáo thêm tội Sử dụng vũ khí trái phép, gây rối trật tự công cộng và hủy hoại tài sản của người khác. Ngày 23/8/2022, bị hại Trương Minh T kháng cáo bản án nêu trên với cùng nội dung như bị hại Trương Minh T1.
Tại phiên tòa phúc thẩm, Các bị hại giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Bị cáo Trần Ngọc H thừa nhận đã thực hiện hành vi gây thương tích cho ông Trương Minh T, Trương Minh T1 và Nguyễn Thọ Minh C như bản án sơ thẩm đã xét xử.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung, phân tích tính chất vụ án đã đề nghị Hội đồng xét xử hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số 146/2022/HSST ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo, các bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Về kháng cáo của các bị hại cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, Hội đồng xét xử xét thấy:
- Thứ nhất, Trần Ngọc H khai ngày 02/5/2020 có gọi điện thoại cho B và một số đối tượng khác như Q, H, D, D,… đến quán sinh tố của H để gặp nhau. Tại quán sinh tố, H có nói với B, Q, C, H, D, D đi đến nhà T để đánh nhau thì tất cả đồng ý việc cùng nhau tham gia đi đánh nhau. H có nói hung khí là dao tự chế và chĩa để ở dưới gầm xe sinh tố để B, Q, C, H, D, D vào lấy. H thấy D lấy 01 cây chĩa, C lấy cầm 01 con dao tự chế, bản thân H lấy 01 khẩu súng tự chế. Sau đó, cả nhóm cùng đi đến nhà T. Tại Bút lục 135 D khai: H chỉ gọi D đến quán sinh tố, không rủ đi đánh nhau. Sau đó, D thấy H, H C và những người khác đi cùng cầm theo dao tự chế nên D biết là chuẩn bị đi đánh nhau nên đi tham gia cùng. Tại Bút lục 147, Nguyễn Ngọc B khai có được H rủ đến quán sinh tố, lúc đến đó đã có một nhóm người sẵn ở đó, khi nghe H nói đi thì đi theo,..và thấy có nhiều người mang theo chĩa, dao tự chế. Ngoài ra, B còn thừa nhận vào lúc 19 giờ 30 phút cùng ngày, mặc dù B biết việc H vừa tham gia đánh nhau gây chuyện nhưng khi H nhờ B vẫn giúp chở H ra Cầu vượt Quang Trung để bỏ trốn. Xét lời khai của H phù hợp với các đối tượng trên về việc H rủ đi đánh nhau, biết việc chuẩn bị hung khí đánh nhau, nhìn thấy nhiều người cầm theo hung khí, nhận thức rõ sự việc sẽ đánh nhau nhưng vẫn đi theo giúp sức có dấu hiệu đồng phạm, nhưng cấp sơ thẩm không điều tra xác minh làm rõ là có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Ngoài ra, tại khoản 6 Điều 134 Bộ luật hình sự quy định: “Người nào chuẩn bị vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm, a-xít nguy hiểm, hóa chất nguy hiểm hoặc thành lập hoặc tham gia nhóm tội phạm nhằm gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.”. Quy định này không bắt buộc người phạm tội phải hoàn thành hành vi khách quan là gây thương tích và cũng không bắt buộc phải có hậu quả xảy ra, người có hành vi chuẩn bị công cụ, phương tiện như trên hoặc tham gia nhóm tội phạm là đã đủ dấu hiệu về mặt khách quan để xử lý hình sự.
- Thứ hai, các bị hại Trương Minh T1, Trương Minh T cung cấp USB và hình ảnh chứa nội dung thể hiện bị cáo cùng các đồng phạm khác tấn công bị hại. Tuy nhiên, C quan điều tra sơ thẩm chưa điều tra xác minh rõ nguồn gốc, nội dung của các file clip và hình ảnh nêu trên là điều tra chưa đầy đủ. Do vậy, cần xác minh làm rõ ai quay đoạn video trên, thu thập lại file gốc và xác minh hình ảnh chứa trong clip có thật hay không hay do cắt ghép hoặc là một clip thể hiện nội dung khác. Nếu có căn cứ cần trích xuất dữ liệu điện tử, nhận dạng những người có trong clip để để xác định có dấu hiệu hành vi phạm tội hay không? - Thứ ba, Theo Kết luận giám định số 900/KLGĐ-TT ngày 22/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Khẩu súng dài gửi giám định là súng tự chế, không súng, nòng súng không có đường khương tuyến….khẩu súng dài gửi giám định có tính năng, tác dụng tương tự như súng săn”, tuy nhiên không giám định tính chất sát thương của khẩu súng. Do đó, cần giám định mức độ gây sát thương của khẩu súng mà bị cáo dùng để tấn công các bị hại, súng đó có khả năng gây sát thương, phá hủy kết cấu vật chất, gây nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng của con người hay không vì bị cáo dùng súng bắn trực tiếp vào người của bị hại và trúng vào vùng trọng yếu của cơ thể bị hại (thực tế bị hại T bị bắn trúng vào đầu và bụng). Hành vi của bị cáo tương tự theo án lệ số 47/2021/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25/11/2021, đây là hành vi có dấu hiệu tội giết người.
Xét thấy, Tòa án cấp sơ thẩm điều tra chưa đầy đủ, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm và hành vi khách quan của bị cáo có dấu hiệu phạm tội khác nặng hơn. Nên Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận một phần kháng cáo của các bị hại và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tại phiên tòa, hủy bản án hình sự sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.
[3] Các vấn đề khác: Bị cáo, các bị hại không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 355, điểm a khoản 1 Điều 358 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 146/2022/HSST ngày 15/8/2022 của Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để chuyển Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh điều tra, truy tố, xét xử lại theo thủ tục chung.
2. Tiếp tục tạm giam bị cáo Trần Ngọc H đến khi Viện kiểm sát nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh thụ lý lại hồ sơ vụ án.
Bị cáo, các bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội cố ý gây thương tích số 481/2022/HS-PT
Số hiệu: | 481/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/11/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về