Bản án về tội cố ý gây thương tích số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 21/12/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 21 tháng 12 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 40/2022/TLST-HS ngày 16 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 42/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Vũ Văn C, sinh ngày 12/4/1997 tại: huyện N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn 9, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hoá; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Văn C1 và bà Phạm Thị V; có vợ là Bùi Thị H (không đăng ký kết hôn) và 01 con; tiền án: không; tiền sự: không; nhân thân: ngày 09/9/2020, bị Công an huyện N xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi có lời nói xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác; bị áp dụng biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Bị hại: Anh Mai Văn N, sinh năm 2000; nơi cư trú: Thôn 9, xã T, huyện N, tỉnh Thanh Hóa; có mặt.

- Người tham gia tố tụng khác:

+ Người làm chứng:

1/ Anh Vũ Văn H; vắng mặt;

2/ Anh Mai Văn Đ; vắng mặt;

3/ Anh Đinh Văn T; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ ngày 22/8/2022, Vũ Văn C đang ở nhà mình thì anh Mai Văn Đ ở thôn 7, xã A, huyện N điều khiển xe mô tô đến rủ đi uống bia tại quán “Bờ Sông Q” ở thôn P, xã P, huyện N. Trong lúc ngồi uống bia với nhau, C gọi điện thoại cho anh Vũ Văn H ở thôn 1, xã T, huyện N đến uống bia cùng. Sau đó, C điều khiển xe mô tô của anh Đ chở anh H đến quán. Quá trình uống bia cùng với anh Đ và anh H, C đăng tin lên mạng xã hội Facebook. Lúc này Mai Văn N vào đọc, nhắn tin bình luận thì anh H nhắn tin rủ N đến “Bờ Sông Q” uống bia cùng nhóm của mình. Anh N đồng ý và điều khiển xe mô tô từ nhà mình đến quán, uống bia cùng với C, anh H và anh Đ. Đến khoảng 14 giờ cùng ngày, cả bốn người đều đã uống nhiều bia nên trong lúc nói chuyện, giữa C và anh H có nói một số câu cửa miệng chửi tục lẫn nhau. Anh N cho rằng C đang chửi bới anh H nên bênh vực anh H và chửi lại C. C thấy N ít tuổi, không hiểu chuyện mà lại có thái độ, lời lẽ hỗn láo với mình nên bực tức, dùng tay phải cầm chiếc đĩa sứ màu trắng, đường kính 17,5cm đang đựng đồ ăn ở trên bàn, đập 01 cái vào mặt anh N, gây chấn thương, chảy máu ở vùng trán và mũi. Bị C đánh, anh N đứng dậy cầm chiếc ghế nhựa ở quán đập 01 cái vào bắp tay trái của C, gây bầm tím. Trong lúc đứng dậy, anh N đạp vào mảnh vỡ của chiếc đĩa sứ rơi ở sân quán nên bị rách da, chảy máu ở mặt trong mắt cá chân bên phải. Thấy C và anh N xô xát nhau nên anh Đ, anh H và anh Đinh Văn T là chủ quán can ngăn nên C điều khiển xe mô tô của anh Đ đi về nhà mình, còn anh N được anh H chở đến Bệnh viện đa khoa huyện N điều trị vết thương.

Tại biên bản xem xét dấu vết trên thân thể của anh Mai Văn N lúc 16 giờ ngày 30/8/2022 tại Bệnh viện đa khoa huyện N thể hiện:

+ Vết thương tại vùng đỉnh trán có kích thước (1,5 x 0,1)cm, đã rút chỉ (03 mũi khâu).

+ Vết thương tại vùng trán phải có kích thước (4 x 0,1)cm, đã rút chỉ (07 mũi khâu).

+ Sống mũi có vết thương đã được khâu, xử lý y tế, miệng vết thương kín, khô, có kích thước (0,5 x 0,3)cm, đã rút chỉ (02 mũi khâu).

+ Quanh mắt phải có vết bầm tụ máu, sưng nề, ấn đau.

+ Mặt trong mắt cá chân phải có vết thương đã được khâu xử lý y tế, miệng vết thương kín, khô, có kích thước (2 x 0,5)cm, đã rút chỉ (03 mũi khâu).

Tại bản Kết luận giám định Pháp y về thương tích số 778/2022/TTPY ngày 15/9/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận:

Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích: Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do thương tích gây nên đối với Mai Văn N được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Cộng theo phương pháp xác định tỷ lệ % TTCT quy định tại Điều 4 - Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế) là 16% (Mười sáu phần trăm).

Tại bản Kết luận giám định Pháp y về thương tích số 784/2022/TTPY ngày 15/9/2022 của Trung tâm pháp y tỉnh Thanh Hóa kết luận:

Tại thời điểm giám định pháp y về thương tích lần đầu: Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do cụ thể từng thương tích, nhóm thương tích gây nên đối với Mai Văn N là:

+ Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do chấn thương, vết thương vùng trán gây ra cho Mai Văn N được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Cộng theo phương pháp xác định tỷ lệ % TTCT quy định tại Điều 4 - Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế) là 06% (sáu phần trăm).

+ Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do chấn thương, vết thương vùng sống mũi gây ra cho Mai Văn N được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Cộng theo phương pháp xác định tỷ lệ % TTCT quy định tại Điều 4 - Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế) là 10% (mười phần trăm).

+ Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do chấn thương quanh mắt phải là 0% (không phần trăm).

+ Tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do chấn thương, vết thương mặt trong mắt cá chân phải là 01% (một phần trăm).

+ Tổng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể do chấn thương, vết thương vùng mặt gây ra cho Mai Văn N được tính theo phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể (Cộng theo phương pháp xác định tỷ lệ % TTCT quy định tại Điều 4 - Thông tư 22/2019/TT-BYT ngày 28/8/2019 của Bộ Y tế) là 15% (mười lăm phần trăm).

Tại bản cáo trạng số 44/CT-VKSNS ngày 14 tháng 11 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Vũ Văn C về tội: “Cố ý gây thương tích” theo quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn giữ nguyên quan điểm kết tội đối với bị cáo theo tội danh, điều khoản đã nêu trong cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm đối với nội dung vụ án. Sau khi phân tích, đánh giá toàn diện vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) áp dụng điểm đ khoản 2 Điều 134; Điều 38; điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS xử phạt Vũ Văn C từ 24(hai mươi bốn) đến 30(ba mươi) tháng tù.

Bị cáo Vũ Văn C thừa nhận và khai báo toàn bộ hành vi cố ý gây thương tích trong vụ án đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả, không có ý kiến gì đối với các văn bản tố tụng hình sự, cũng như lời khai của bị hại, người làm chứng trong vụ án. Bị cáo không có ý kiến tranh luận gì, chỉ đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo.

Bị hại Mai Văn N không có ý kiến tranh luận gì, đề nghị HĐXX giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Về trách nhiệm dân sự do bị cáo đã bồi thường toàn bộ số tiền chi phí điều trị vết thương nên anh N không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về tội danh: Lời khai báo của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với đơn trình báo cũng như lời khai của bị hại, người làm chứng và các văn bản tố tụng hình sự khác, như: sơ đồ hiện trường; biên bản xác định hiện trường; bản ảnh thương tích; biên bản xem xét dấu vết trên thân thể; bệnh án ngoại khoa; bản kết luận giám định pháp y về thương tích… cũng như các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập theo trình tự luật định, phản ánh đúng sự thật khách quan của vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 14 giờ ngày 22/8/2022, trong lúc uống bia cùng với nhau tại quán “Bờ Sông Q” ở thôn P, xã P, huyện N, tỉnh Thanh Hóa, Vũ Văn C bực tức vì anh Mai Văn N ít tuổi hơn mà lại chửi bới mình nên đã cố ý dùng chiếc đĩa sứ có đường kính 17,5cm là hung khí nguy hiểm đập một cái vào mặt của anh N, làm chấn thương, chảy máu ở vùng trán và mũi, gây tổn thương cơ thể do thương tích gây nên là 15% sức khỏe. Hành vi nêu trên của Vũ Văn C đã phạm vào tội: “Cố ý gây thương tích”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS.

Quan điểm buộc tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa đối với bị cáo theo tội danh và khung hình phạt như bản cáo trạng là hoàn toàn thỏa đáng, đảm bảo căn cứ pháp luật.

[2] Về hình phạt: Hành vi của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội. Hành vi ấy không những đã trực tiếp xâm phạm đến sức khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ, mà còn gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội ở địa phương, gây tâm lý hoang mang, bất bình cho quần chúng nhân dân.

Xét nhân thân: Bị cáo đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi có lời nói xúc phạm danh dự, nhân phẩm người khác, phạm tội lần đầu, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo và tự nguyện bồi thường thiệt hại đầy đủ cho bị hại.

Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 BLHS là người phạm tội tự nguyện bồi thường thiệt hại, thành khẩn khai báo, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt.

Đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét yếu tố nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đã phân tích, HĐXX thấy rằng bị cáo là người đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền, tuy lần này là phạm tội lần đầu nhưng là tội phạm nghiêm trọng, do đó cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đủ điều kiện để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân tốt, đồng thời mới có tác dụng răn đe và phòng ngừa chung.

[3] Về trách nhiệm dân sự: Sau khi bị gây thương tích, anh Mai Văn N được đưa đến Bệnh viện đa khoa huyện N điều trị và đến khám tại Bệnh viện H, tỉnh Thanh Hóa. Anh N yêu cầu bị cáo phải bồi thường các khoản chi phí điều trị vết thương và tổn thất về tinh thần là 20.000.000 đồng. Bị cáo đã bồi thường toàn bộ thiệt hại cho anh N là 20.000.000 đồng. Tại phiên tòa hôm nay, bị hại Mai Văn N không yêu cầu bồi thường gì thêm, nên miễn xét.

[4] Về vật chứng: Chiếc đĩa sứ có đường kính 17,5cm C dùng để gây thương tích cho anh N đã được gia đình anh T (chủ quán) quét dọn, vứt vào thùng rác, Công ty vệ sinh môi trường đã thu gom chở đi xử lý nên không thu giữ được.

[5] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong các giai đoạn tố tụng đã thực hiện và ban hành đều hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc tố tụng cũng như đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm được giao theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm (HSST) theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 38 BLHS:

- Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn C phạm tội: “Cố ý gây thương tích”.

- Xử phạt: Bị cáo Vũ Văn C 24(hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày bị bắt thi hành án.

Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: bị cáo Vũ Văn C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS: bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/12/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về