Bản án về tội cố ý gây thương tích số 396/2022/HS-PT

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 396/2022/HS-PT NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 295/2021/TLPT-HS ngày 18 tháng 8 năm 2022 đối với bị cáo Đoàn S do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 92/2022/HS-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc.

Bị cáo có kháng cáo:

ĐOÀN S (Tên gọi khác: Không); Sinh năm 1998 tại Đồng Nai.

Nơi đăng ký thường trú: ấp 3, xã X, huyện X1, tỉnh Đ; Nơi cư trú: ấp 3, xã X, huyện X1, tỉnh Đ; Giới tính: Nam; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Đoàn Văn B sinh năm 1974 và bà: Đỗ Thị Kim H, sinh năm 1979; có vợ tên: Đỗ Thị M, sinh năm 2001; Con: có 01 con, sinh năm 2019.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 27/8/2020, bị Ủy ban nhân dân xã X, huyện X1 ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 271/QĐ-XPHC xử phạt số tiền 2.500.000 đồng về hành vi “Tàng trữ, cất giấu trong người, đồ vật, phương tiện giao thông các loại dao, búa, các loại công cụ, phương tiện khác thường dùng trong lao động, sinh hoạt hằng ngày nhằm mục đích gây rối trật tự công cộng, cố ý gây thương tích cho người khác”. Ngày 09/9/2020, S đã nộp phạt theo quy định.

Bị cáo bị bắt, tạm giam ngày 27/01/2022 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam – Công an tỉnh Đồng Nai; (Bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Phước A, Luật sư của Văn phòng Luật sư P, thuộc Đoàn Luật sư tỉnh K; địa chỉ: Số 13, đường C, thành phố N, tỉnh K; (Có mặt).

Ngoài ra, còn có người bị hại Nguyễn Thành T và một số người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác nhưng không có kháng cáo và không bị kháng nghị nên không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Đoàn S và anh Nguyễn Thành T, sinh năm 1989 cùng thường trú ấp 3, xã X, huyện X1, tỉnh Đ. Anh T có anh họ là Nguyễn Quốc T1, sinh năm 1988, thường trú tại 81A, đường 21, phường H, thành phố T, Thành phố H. Vào đầu tháng 12 năm 2020, S thuê anh T xăm hình nghệ thuật cho S với giá 1.000.000 đồng nhưng sau khi xăm xong thì S không có tiền trả nên xin nợ anh T. Anh T đã nhiều lần đề nghị nhưng S xin khất hẹn trả sau. Khoảng 18 giờ 00 phút, ngày 12/12/2020, anh T đến tiệm sửa xe tên “K4” thuộc ấp 3, xã X, huyện X1 của S để đòi số tiền 1.000.000 đồng mà S nợ T, nhưng không có S ở nơi làm việc mà chỉ gặp ông Đoàn Văn B (là cha ruột của S) nên anh T yêu cầu ông B gọi S về trả tiền nợ nhưng ông B không biết S đi đâu và thấy anh T có biểu hiện bực tức nên ông B bỏ về nhà. Lúc này, S đang uống rượu, bia thì nghe tin anh T đến đòi nợ, S cho rằng anh T đã đe dọa đánh ông B nên S bực tức quay về tiệm “K4” lấy 01 con dao nhãn hiệu KINWI, dài 22,5 cm, gồm lưỡi kim loại sắc nhọn và cán nhựa màu vàng có sẵn trong tiệm cất giấu sau lưng quần bên phải của mình, với mục đích đi tìm T để làm rõ sự việc và phòng trường hợp có người đánh mình thì sẽ dùng dao tấn công lại. S một mình đi đến nhà anh T1 để tìm anh T vì S nghĩ T đang ở trong nhà T1. Khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày, khi đến trước cổng nhà anh T1, S tri hô “Thằng T đâu ra đây nói chuyện với tao” thì anh T1 lúc này đang uống rượu, bia nghe thấy vậy, nghĩ S đến nhà mình gây hấn nên T cầm 01 dao tự chế bằng kim loại, dài 77cm, lưỡi sắc nhọn có sẵn trong nhà đi ra cổng nhà mình cự cãi với S. Trong lúc cự cãi, do bực tức nên anh T đã cầm dao tự chế nêu trên chém về phía S theo tư thế từ trên xuống dưới, từ phải qua trái thì S né tránh nhưng vẫn bị chém trúng vành tai bên trái và vùng cổ phía sau tai trái làm dao tự chế gãy rời phần cán với phần lưỡi và S té ngã thì được bà Đỗ Thị Kim H (mẹ ruột của S, lúc này mới đến sau) chạy lại đỡ. Lúc chém S anh T không xác định sẽ chém vào vị trí nào trên cơ thể S mà anh T chém một cách bột phát, nghĩ trúng đâu thì trúng. Tiếp tục sau đó, S vùng người đứng dậy lao về phía T đồng thời dùng tay phải rút con dao nhãn hiệu KINWI nêu trên đang cất giấu từ sau lưng quần bên phải của mình, giơ dao lên cao, đâm dao về phía người anh T 01 nhát theo tư thế dao đâm từ trên xuống dưới, từ phải qua trái trúng 01 nhát vào khoang sườn 6-7 bên trái của anh T làm lưỡi dao đâm vào cơ thể T và gãy rời khỏi phần cán dao. Thấy vậy, nghĩ rằng S sẽ tiếp tục đánh anh T nên anh T1 cầm cây tre dài khoảng 02 mét từ trong nhà T1 chạy ra để can ngăn, bảo vệ anh T nhưng không đánh trúng S. Đồng thời, S thấy dao bị gãy do phát đâm nêu trên nên bỏ cán dao lại hiện trường rồi rời khỏi hiện trường, còn anh T được đưa đi cấp cứu.

Hậu quả: Anh T bị thương vùng ngực và bên trong bụng, được đưa đi cấp cứu tại Trung tâm y tế huyện X, sau đó chuyển đến điều trị tại Bệnh viện Đa khoa khu vực L; Đoàn S bị thương vùng tai trái và cổ nhưng sau đó đã tự đi chữa trị ngoài cơ sở y tế.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 798/C09B ngày 08/02/2021 của Phân viện khoa học hình sự tại Thành phố H thuộc Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận về thương tích của anh Nguyễn Thành T như sau: Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể, xác định tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám định của ông Nguyễn Thành T là 54%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 817/C09B ngày 08/02/2021 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố H thuộc Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận về cơ chế hình thành vết thương trên cơ thể của anh Nguyễn Thành T như sau: Các thương tích của ông Nguyễn Thành T do vật sắc nhọn gây ra.

Tại Bản Kết luận giám định số 1770/C09B ngày 19/4/2021 của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố H kết luận: 01 cán dao màu vàng, kích thước (10,5x2)cm, đuôi cán dao có lỗ móc, đầu cán dao bị gãy để lộ 01 phần lưỡi dao bằng kim loại dính tại cán dao, thân cán dao có chữ “KINWI” và 01 lưỡi dao kim loại, kích thước (12x2)cm, đầu dao sắc nhọn, một mặt lưỡi dao sắc bén, đuôi lưỡi dao bị gãy, trên thân dao có chữ “KINWI-BRAND STAINLESS STEEL” gãy ra từ cùng 01 con dao.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 2097/C09B ngày 13/4/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố H thuộc Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận thương tích của Đoàn S như sau: Áp dụng phương pháp xác định tỷ lệ tổn thương cơ thể, xác định tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây ra tại thời điểm giám định của Đoàn S là 03%.

Tại Bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 2098/C09B ngày 13/4/2022 của Phân viện Khoa học hình sự tại Thành phố H thuộc Viện khoa học hình sự Bộ Công an, kết luận về cơ chế hình thành vết thương trên cơ thể của Đoàn S như sau: Các thương tích của Đoàn S có đặc điểm phù hợp do vật sắc tác động gây ra.

Vật chứng vụ án thu giữ: 01 cán dao màu vàng, kích thước (10,5x2)cm, đuôi cán dao có lỗ móc, đầu cán dao bị gãy để lộ 01 phần lưỡi dao bằng kim loại dính tại cán dao, thân cán dao có chữ “KINWI”. 01 lưỡi dao kim loại, kích thước (12x2)cm, đầu dao sắc nhọn, một mặt lưỡi dao sắc bén, đuôi lưỡi dao bị gãy, trên thân dao có chữ “KINWI-BRAND STAINLESS STEEL”. 01 dao tự chế bằng kim loại dài 77cm, bị gãy rời phần cán và lưỡi, phần lưỡi dao kích thước (60x2,5)cm tính cả chiều dài của phần cuốn lưỡi, phần cán dao kích thước (22x4)cm. 01 cây tre dài khoảng 02m (là dụng cụ anh T sử dụng để bảo vệ anh T1 sau khi thấy S dùng dao đâm anh T1) do sau khi vụ án xảy ra, anh T đã đốt cây tre trên nên không thu giữ.

Tại Bản cáo trạng số 85/CT-VKS-HS ngày 02 tháng 6 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc truy tố Đoàn S về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 92/2022/HS-ST ngày 07/7/2022 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc đã quyết định:

Căn cứ vào điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Đoàn S: 05 (Năm) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”. Thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2022.

Ngoài ra, bản án còn tuyên về bồi thường dân sự, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, bị cáo Đoàn S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai tại phiên tòa phúc thẩm: Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo Đoàn S về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Đoàn S 05 (năm ) năm tù là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo và đã có xem xét đến các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ, nhân thân của bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đưa ra các tình tiết giảm nhẹ đã nộp số tiền 15 triệu đồng bồi thường cho bị hại theo bản án sơ thẩm, mẹ bị cáo bị bệnh nặng là những tình tiết mới, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo: Bị cáo Đoàn S có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bị hại có lỗi và cũng xin giảm nhẹ cho bị cáo; tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo cung cấp thêm các tình tiết giảm nhẹ khác là đã nộp số tiền 15 triệu đồng bồi thường cho bị hại theo bản án sơ thẩm, mẹ bị cáo bị bệnh nặng. Do đó, đề nghị áp dụng điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật hình sự giảm nhẹ hình phạt, xét xử bị cáo dưới khung hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Đơn kháng cáo của bị cáo làm trong thời hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về tội danh:

Vào khoảng 19 giờ 00 phút, ngày 12/12/2020, tại khu vực trước cổng nhà anh Nguyễn Thành T thuộc ấp 3, xã X, huyện X, tỉnh Đ, do mâu thuẫn cãi nhau nên anh T đã cầm dao tự chế chém về phía Đoàn S làm S bị thương tích vành tai bên trái và vùng cổ phía sau tai trái với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 03%. Ngay sau đó, bị cáo Đoàn S đã dùng dao dài 22,5cm, cán nhựa màu vàng, lưỡi sắc nhọn mang theo đâm 01 nhát trúng vào khoang sườn 6-7 bên trái của anh Nguyễn Thành T gây thương tích với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 54%.

Tòa án cấp sơ thẩm xét xử và kết án bị cáo Đoàn S phạm tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Xét kháng cáo của bị cáo:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sức khỏe của người khác, ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương. Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, xem xét tình tiết giảm nhẹ bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường thiệt hại, bị hại có một phần lỗi, hoàn cảnh khó khăn có con còn nhỏ theo quy định tại điểm b và s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và nhân thân của bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 05 năm tù là phù hợp. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo đưa ra các tình tiết giảm nhẹ đã nộp số tiền 15 triệu đồng bồi thường cho bị hại theo bản án sơ thẩm, mẹ bị cáo bị bệnh nặng, bị cáo là lao động chính trong gia đình là những tình tiết mới. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, sửa bản án sơ thẩm, giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, tạo điều kiện cho bị cáo cải tạo tốt, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Về án phí: Do kháng cáo được chấp nhận nên bị cáo Đoàn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết lại.

[6] Ý kiến luật sư bào chữa cho bị cáo phù hợp nên được chấp nhận.

[7] Quan điểm và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai có phần phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử được chấp nhận.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355 và Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn S; sửa bản án hình sự sơ thẩm số: 92/2022/HS-ST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc.

1. Căn cứ điểm c khoản 3 Điều 134; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 154, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo Đoàn S 04 (bốn) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”.

Thời hạn tù tính từ ngày 27/01/2022.

2. Về án phí: Bị cáo Đoàn S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội cố ý gây thương tích số 396/2022/HS-PT

Số hiệu:396/2022/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về